345 Thọc gậy bánh xe
X. Chọc gậy bánh xe.
346 Thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã.
Câu tục ngữ
“Thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã” được cấu tạo theo lối đặt hai vế đối ứng với nhau theo nhịp 4/4 và hiệp vần cách (công - đồng) khiến cho hai vế kết chặt lại thành một thể thống nhất vừa dễ đọc vừa dễ nhớ. Ý của câu này là nhằm khẳng định và ngợi ca những người thợ giỏi và bậc nhất của hai nghề thủ công cổ truyền ở Thăng Long - Hà Nội vào những thế kỷ XVII-XVIII-XIX là nghề vàng bạc (kim hoàn) và nghề đúc đồng. Nhà nghiên cứu sử học Nguyễn Thừa Hỷ, trong cuốn “Thăng Long - Hà Nội thế kỷ XVII-XVIII-XIX” (Hội sử học Việt Nam, H.,1993) đã cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin quý giá về hai nghề thủ công cổ truyền này.
Theo truyền thuyết dân gian, ông tổ nghề kim hoàn ở Định Công thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội là ba anh em họ Trần, tức Trần Hòa, Trần Điện và Trần Điền, quê ở làng này, sống vào cuối thế kỷ thứ VI, đã học được nghề kim hoàn trong một cuộc lưu lạc tại một nước láng giềng. Khi trở về quê, các ông đã đem nghề khéo léo đó truyền dạy cho dân làng. Từ đó, làng Định Công có nghề làm vàng bạc truyền thống, chuyên chế tác các đồ nữ trang nhỏ nhắn, như hoa tai, xuyến, hột vòng… phục vụ cho khách hàng ở Thăng Long. Vào khoảng thế kỷ XVIII-XIX, khi nền kinh tế hàng hóa ở Thăng Long-Hà Nội phát triển mạnh, một số thợ kim hoàn Định Công mới di cư lên Thăng Long hành nghề tại phố Hàng Bạc, ở quãng giáp giới với phố Hàng Đào ngày nay.
Cần nói thêm rằng lúc đó ở phố Hàng Bạc đã có thợ đúc bạc quê ở Trâu Khê (thuộc huyện Bình Giang, Hải Dương) lên cư trú từ trước. Và sau này, muộn hơn, còn có một số dân làng Đồng Sâm (huyện Kiến Xương, Thái Bình) di cư lên.
Thợ Trâu Khê chuyên đúc và đổi bạc.
Thợ Đồng Sâm chuyên chạm trổ những đồ vật lớn bằng bạc như lư, đỉnh, hợp trầu, khay, chén, bát, đĩa bạc…
Thợ Định Công chuyên làm đồ nữ trang bằng vàng bạc và những đồ vật nhỏ, tinh vi.
Vào những thế kỷ này, nghề kim hoàn ở Thăng Long-Hà Nội đã đạt trình độ kỹ thuật cao, đến mức đã phân chia thành ba khâu kỹ thuật khác nhau: nghề
chạm (chạm trổ vàng bạc), nghề
dậu (kéo vàng bạc thành sợi để trang trí), nghề
trơn (chế tác đồ vàng bạc không chạm trổ).
Xét về mặt tay nghề, thì
“thợ vàng Định Công” được tôn vinh là thợ đạt trình độ kỹ thuật tinh xảo hàng đầu.
“Thợ đồng Ngũ Xã” ở thời đó cũng không thua kém gì về tay nghề so với “thợ vàng Định Công”.
Như đã biết, ở Thăng Long-Hà Nội có ba địa điểm từng có nghề đúc đồng và buôn bán đồng truyền thống là phố Lò Đúc, phố Hàng Đồng và khu Ngũ Xã.
Làng quê gốc của các thợ đồng Ngũ Xã, Hàng Đồng và Lò Đúc đều thuộc về Kinh Bắc.
Truyền thuyết kể rằng ông tổ nghề đúc đồng là nhà sư Không Lộ (Nguyễn Minh Không). Có nhiều cứ liệu cho thấy ông tổ nghề đúc đồng này quê ở Nam Hà, trụ trì ở Kinh Bắc và cư trú tại Hà Nội. Nhà sư đã truyền nghề cho hai chú tiểu của mình là Phạm Quốc Tài, quê làng Đề Kiều (tức cầu Nôm) và Trần Lạc, quê làng Đông Mai (tức làng Hề, hay là làng Me) thuộc Kinh Bắc. Sau hai người đó lại đem nghề truyền cho dân làng mình.
Vào khoảng thế kỷ thứ XVII, dân 5 xã thuộc tổng Đề Kiều đã di cư sang Thăng Long và định cư ở bán đảo Ngũ Xã bên bờ Trúc Bạch lập nên Ngũ Xã tràng. Còn dân buôn bán đồng thuộc xã Đông Mai (làng Me) đã di cư sang phố Lò Đúc, sau này chuyển lên phố Hàng Đồng.
Ngũ Xã tràng lập trên bờ hồ Trúc Bạch là vì nghề đúc đồng cần gần nguồn nước (hồ Trúc Bạch, Hồ Tây) và chất đất ở đây tốt, dẻo mượt khác thường, rất cần cho việc làm khuôn và đắp lò đúc. Sản phẩm đúc đồng là nồi, xanh, đèn, đỉnh, chuông, đồ thờ và tượng… Kỹ thuật đúc đồng ở Ngũ Xã đã đạt tới trình độ cao, khá tinh xảo và rất nổi tiếng. Việc kíp thợ đồng Ngũ Xã dưới sự chỉ huy của ngươi thợ tài nghệ là Trùm Trọng vào năm 1677, dưới triều vua Lê Hy Tông đã đúc thành công pho tượng đồng đen, nặng hơn 4 tấn ở quán Trấn Vũ đã chứng tỏ điều đó. Và thợ đồng Ngũ Xã rất đáng được tôn vinh vào hàng thợ thủ công giỏi vào bậc nhất của kinh kỳ.