Lê Xuyên thuộc thế hệ các nhà văn Việt Nam nổi tiếng sau 1954 tại miền Nam.
Cái chết của ông là một mất mát lớn đối với văn học của chúng ta, nhất là mảng
văn học miền Nam.
Chúng ta có nhiều nhà văn sử dụng tiếng Nam để viết văn như Hồ Biểu Chánh, Phi
Vân, Vương Hồng Sển, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam... mỗi người một sắc thái riêng,
và đều sử dụng tiếng Nam một cách nhuần nhuyễn, tuyệt vời. Nhưng đọc ai trong
số những nhà văn ấy, người đọc đôi lúc vẫn có cảm tưởng đó là một thứ ngôn ngữ
đã được trau chuốt, nghĩa là đã có sự can thiệp của tri thức.
Cái tiếng Nam Lê Xuyên sử dụng để viết văn hình như được chuyển thẳng từ đời
sống vào. Nó còn nguyên cái chất nửa phèn/nửa ngọt. Nó nồng hương vị cỏ cây
hoang dã. Nó ngùn ngụt dục vọng, thứ dục vọng tự nhiên của sinh tồn, trời đất.
Chỉ cần đọc một đoạn ngắn trong “Chú Tư Cầu” của Lê Xuyên đủ để người ta nhận
ra điều đó. Tư Cầu mười bảy tuổi, Phấn mười sáu. Hai đứa ở chòi, chăn vịt giữa
đồng hoang.
Lê Xuyên viết:
“Tư Cầu chống xuồng vừa tới nơi đã nghe tiếng Phấn hỏi vọng từ phía sau chòi:
- Anh Tư hả anh Tư?
- Ừa, thì tao chứ còn ai nữa! Sao đèn đuốc gì mà không có, tối om vậy nè?
- Vậy mà cũng hỏi! Bộ anh quên đem đèn rọi mù u qua rồi hả?
Nhớ lại hồi nãy Phấn có hỏi mượn dầu lửa để đốt đèn. Tư Cầu bắt tức cười vì nó
quên lú đi mất để Phấn phải hỏi vặn vẹo như vậy.
- Có chớ sao quên! Mà mày làm gì lục đục ở đằng sau đó Phấn?
- Tắm chớ làm gì mà hỏi! Đốt rọi lên đi anh Tư... Chứ bộ đứng như trời trồng
đó hả!”
Trong cái bóng tranh tối tranh sáng của con rọi mù u, cái câu “tắm chớ làm gì”
của con nhỏ nghe dễ sợ!”
Lê Xuyên cũng được coi là một trong những nhà văn viết đối thoại hay nhất của
chúng ta. Đối thoại của ông vừa có sức bật của những trái banh đánh đi / dội
lại, vừa có cái giản dị, kỳ ảo của những tấm gương nhỏ, nếu biết cách soi,
người ta có thể nhìn thấy nhiều thứ phản ánh ở đằng sau, ở bên trong. Sức hấp
dẫn của các trang sách của Lê Xuyên nằm trong các đối thoại của ông, trở thành
một thứ duyên ngầm.
Bằng hữu và những người đã có dịp làm việc chung với Lê Xuyên đều cùng có
chung một nhận xét, ông là người trung thực, không để ý đến bề ngoài, lúc nào
cũng ăn mặc xuề xòa.
Từng làm tổng thư ký cho nhiều tờ báo lớn, nhưng ông luôn đối xử nhã nhặn với
tất cả mọi người, không làm ra cách biệt ngay đối với những người thuộc quyền.
Trong buổi lễ tưởng niệm ông, do nhật báo Người Việt tổ chức tại Quận Cam, sau
khi ông qua đời, nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo như Nguyễn Mộng Giác, Viên
Linh, Thảo Trường, Võ Long Triều, Vũ Ánh, đã lên tiếng ca ngợi các tác phẩm và
nhân cách của Lê Xuyên trong đời sống. Và, cứ như nhận xét có tính cách chuyên
môn của chính các nhà văn, nhà thơ này thì, riêng các tiểu thuyết của Lê
Xuyên, còn hứa hẹn có nhiều người đọc hơn nữa, nhiều khám phá hơn nữa.
Sau biến cố 75, Lê Xuyên cũng bị liệt vào hàng ngũ “biệt kích văn hóa” và bị
cộng sản nhốt tù 7 năm. Được tha ra khỏi tù, ông làm đủ mọi nghề không tên để
kiếm sống, và công việc cuối cùng ông làm được nhiều năm, cho tới lúc chết là
ngồi bán thuốc lá lẻ bên lề đường Nguyễn Kim, Chợ Lớn.
Ông không viết văn nữa, như một cách bầy tỏ thái độ đối với nhà cầm quyền.
Trong một điều kiện thời tiết nào đó, chỉ những thứ cây nào đấy mọc được.
Vài người quen biết cũ của ông, có người đã viết trở lại, đề nghị ông “viết
chui” viết giấu tên, chắc chắn đời sống sẽ khá hơn, đỡ vất vả hơn, nhưng ông
đã nhất quyết từ chối, và tiếp tục thu tấm thân còm cõi với chiếc mũ phở sau
quầy thuốc lá... “bữa nào cũng đói cả”, như thư của các nhà văn Nguyễn Thụy
Long, Văn Quang ở trong nước cho biết.
Từ khi ra khỏi tù, Lê Xuyên sống không hộ khẩu, không được cấp bất cứ một thứ
giấy tờ hộ thân gì, khi chết phải nhờ những người sống lâu năm trong xóm làm
chứng mới xin được giấy khai tử để mang thiêu.
Như thế, nói Lê Xuyên hưởng thọ 77 tuổi là một cách nói theo thói quen, văn
chương chữ nghĩa. Chứ sự thực, có thể coi như Lê Xuyên đã không còn nữa kể từ
sau ngày 30 tháng 4, 1975.
Thật vậy, đối với một nhà văn, cái chết phải được kể từ lúc người ấy không còn
viết nữa. Lê Xuyên đã ngừng viết, thực sự ngừng viết, kể từ ngày 30 tháng 4 ai
oán đó.
Những ngày còn lại của ông, từ đó cho đến 09 giờ tối ngày 02 tháng 03, 2004,
không thể gọi là những ngày ông “hưởng thọ” được. Thực sự thì phải gọi là một
cuộc chịu đựng. Ông đã phải chịu đựng cuộc sống gần 30 năm sau cùng của đời
mình.
Ông không được cấp ngay cả những giấy tờ chứng minh là một người Việt Nam!
Những người còn ở lại miền Nam sau ngày 30 tháng 4, 1975, hẳn biết rõ trong
hoàn cảnh như thế, đời sống hàng ngày của cá nhân ông, của gia đình ông, khó
khăn biết chừng nào!
Tại sao Lê Xuyên bị đối xử như vậy? Có phải vì ông là tác giả những cuốn: Chú
Tư Cầu, Rặng trâm bầu, Vợ thầy Hương, Kinh Cầu Muống, Vùng bão lửa, Nguyệt
Đồng Xoài...?
Ông đã tự xóa bỏ mình trước khi chết.
Trong mấy tấm hình Lê Xuyên, được gửi từ trong nước ra, có tấm ông chụp một
mình với chiếc mũ phở và nụ cười thật tươi dưới bộ râu trắng như cước, và một
tấm chụp chung với 2 nhà văn Văn Quang, Nguyễn Thụy Long, để đầu trần, vẻ mặt
xa vắng nhiều hơn nghiêm túc, chắc là trong một buổi thăm hỏi nhau gì đó,
người ta không biết hình ảnh nào hợp với cái chết của ông? Để hai cái hình gần
nhau người ta có cảm tưởng như ông cười cợt chính mình.
NĐT
(theo Viet Herald)
Download:
http://www.fileswap.com/dl/5qJHq5YHEr/C ... 1.zip.html
http://www.fileswap.com/dl/C8a2WssvH4/C ... 2.zip.html
http://www.fileswap.com/dl/uxQUZM4F9/Ch ... 3.zip.html
http://www.fileswap.com/dl/KR5Gj3sUGk/C ... 4.zip.html