by giamchua » 03 Jun 2006
Giấm đóng góp thêm chút xíu về cỏ tranh ( 2 bài , mời các bạn tham khảo)
Imperatia cylindrica (L.) F. Beauv..
(Imperatia aurundinacea Cyrill)
POACEAE
Cỏ Tranh, Bạch Mao
Hình dáng : Cỏ có phiến lá đứng cao đến 1,2m, căn hành nằm sâu, có dạng hình trụ dài và nhỏ 0,2 - 0,4cm, màu trắng ngà hay vàng dợt, phân thành nhiều đốt, có lông ở đốt.
Lá : Lá đơn, phiến đứng hình dãy hẹp, dài 1 - 1,2m, rộng 6 - 8mm, 3 - 6 cặp, mặt trên nhám, dưới có lông hay trơn, mép lớn có lông, lưỡi bẹ mềm, ngắn, nhiều lông dài, lá non xếp cuộn.
Hoa : Hoa trắng tạo thành gié đứng hình trụ dài 5 - 20cm với nhiều lông trắng bạc, gié hoa có 1 hoa thụ, 1 lép, 2 tiểu nhị.
Trái : Trái có nhiều lông trắng ánh bạc
Nơi sống : Mọc hoang trên nhiều loại đất khác nhau, từ vùng đất khô cằn đến vùng đất phù sa ẩm và từ đồng bằng U Minh, đến vùng trung du hay vùng núi cao 0 - 2000m ... cây ưa sáng hoàn toàn, sống lâu năm, phát triển mạnh bằng rễ ngầm cả trên loại đất đá ong cứng, nhưng ưa đất còn dày, tơi xốp, có nhiều mùn và đủ ẩm.
...........................................................................................................
Cỏ tranh (Thân - rễ)
Tên khoa học: Imperata cylindrica var major (Nees) C.E Hubb. họ Lúa (Poaceae)
Tên khác: Cỏ săng - Bạch mao (TQ) - Lalang Grass rhizome (Anh)
Bộ phận dùng: Thân - rễ của cây Cỏ tranh (Rhizome Imperate) phơi khô, gọi là Bạch mao căn.
Được ghi vào Dược điển Việt Nam (1983) Dược điển Trung Quốc (1963) (1997)
Mô tả: Cây cỏ tranh là một cây cỏ sống lâu năm, thân rễ mọc bò lan dài sâu dưới đất, lá mọc đứng, hẹp, dài cứng, gân lá ở giữa phát triển, mặt trên nháp, mặt dưới nhẵn, mép lá sắc dễ cứa đứt chân tay. Hoa tự hình chuỳ, máu trắng bông, gió thổi bay đi rất xa. Cây cỏ tranh mọc hoang rất nhiều ở các vùng đồi núi nước ta như: Thái Nguyên, Phú Thọ, Lạng Sơn, Nghệ An. Khu tự trị Tây Bắc…Nhân dân ta thường lấy lá lợp nhà.
Thu hái chế biến: Thường thu hoạch vào mùa thu (tháng 10 - 11) và mùa xuân (3-4). Đào lấy thân - rễ, cắt bỏ phần trên cổ rễ, rửa sạch đất cát, tuốt bỏ sạch bẹ, lá và rễ con, xong đem phơi khô và phân loại to, nhỏ, buộc lai thành bó.
Bạch mao căn mùi hơi thơm, vị hơi ngọt.
Bạch mao căn loại 1: khô, dài, to mập, đường kính trên 2mm, dài trên 3cm, màu trắng ngà, sạch rễ con, vị ngọt, không mốc mọt và vụn nát, sạch đất cát. Bạch mao căn loại 2: Phẩm chất như trên nhưng kích thước nhỏ và ngắn hơn.
Loại rễ cỏ tranh màu đen vàng không dùng làm thuốc.
Thuỷ phần an toàn dưới 12p100
Thành phần hóa học: Rễ cỏ tranh chứa chất cylindrin, arundoin, (glucose, fructose và acid hữu cơ - hoạt chất còn chưa rõ).
Công dụng: Theo Đông y, Bạch mao căn vị ngọt, tính lạnh, vào 3 kinh: Tâm, Tỳ và Vị.
Có tác dụng trừ phục nhiệt (cái nóng, ẩn náu trong người) tiêu máu đọng, lợi tiểu tiện.
Dùng chữa các chứng bệnh hen, ho ra máu, đái ra máu, thổ huyết, chảy máu cam, nóng trong cơ thể sinh khát, viêm thận, thuỷ thũng, hoàng đản, bí tiểu tiện, nước tiểu vàng đỏ.
Liều dùng: 10 - 30g, sắc uống. Thường dùng tươi, cũng có thể sao cháy nhưng phải tồn tính để cầm máu.
Lưu ý: Người thuộc chứng hư hàn, nhưng không có thực nhiệt, đái nhiều không được dùng
Bài thuốc:
Bài số 1: Chữa hen:
Sinh mao căn (rễ tranh tươi) 20g. Sắc uống lúc nước còn ấm, sau bữa ăn.
Bài số 2: Chữa đái ra máu:
Bạch mao căn
Thán khương
(gừng khô sao cháy đen)
Thêm mật ong trắng. Sắc uống.
Bài số 3: Chữa viêm cầu thận cấp tính
Mã đề :10g
Kim ngân hoa :10g
Rễ cỏ tranh :10g
Cam thảo nam:10g
Kim anh tử:10g
Đậu đen:10g
Hoàng đằng:10g
Kinh giới:10g
Cỏ mần trầu:10g
Đổ 3 bát nước, sắc còn 1 bát, uống mỗi ngày 200 - 300 ml.
Bài số 4: Chữa hư lao trong đờm có máu. Cũng có thể dùng chữa lao phổi, giãn phế quản, ho ra máu, chảy máu cam:
Nước uống Tam Tiên (3 thứ tươi)
Rễ cỏ tranh tươi 30g
Ngó sen tươi 30g
Rễ tiểu kế tươi 15g
Sắc uống.
Bài số 5: Chữa đái ra máu:
Rễ cỏ tranh 30g
Rễ đại kế 15g
Sắc uống.
Bài số 6: Lợi niệu, chữa phù thũng do viêm thận cấp tính, bí tiểu tiện. Còn dùng chữa cả hoàng đản do thấp nhiệt, ho gà:
Rễ cỏ tranh tươi 30g
Vỏ quả dưa hấu 30g
Râu ngô 9g
Xích tiểu đậu 12g
Sắc uống
Lưu ý: Phụ nữ có thai, người thuộc chứng hư hàn, đái nhiều mà không khát thì không uống
Bảo quản: Để nơi khô ráo, tránh ẩm ướt
Ngày 07/11/2004
Theo sách "Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược" - Nhà xuất bản Y học