Mặc áo ngực gây hại cho đường thoát của bạch huyết
Có các yếu tố khác ảnh hưởng đến tuyến lưu thông bạch huyết. Thường xuyên mặc áo ngực (xu chiêng) có hại cho sự thông suốt của mạch bạch huyết và có thể gia tăng nhiều nguy cơ phát triển ung thư v_ú. Một số nghiên cứu khác đã xác nhận mối liên hệ này. Năm 1991, C. Hsieh và D. Trichopoulos đã nghiên cứu kích thước v_ú và việc thuận tay trái/phải dưới góc độ là những yếu tố nguy cơ cho ung thư v_ú. Họ lưu ý trong những phát hiện của mình là những phụ nữ tiền mãn kinh không mặc áo ngực có nguy cơ ung thư v_ú ít hơn một nửa so với những người đồng trang lứa thường xuyên mặc [
Europen Journal of Cancer, 1991; 27(2):131-5]
Một nghiên cứu khác được đăng trên tạp chí
Chronobiology International năm 2000 nói rằng mặc áo lót làm giảm lượng melatonin được sinh ra trong cơ thể và làm tăng nhiệt độ cốt lõi ở sâu trong cơ thể. Melatonin là một chất chống ôxy hóa mạnh và là hoóc môn cải thiện giấc ngủ, chống lão hóa, đẩy mạnh hệ miễn dịch, làm chậm sự phát triển của một số dạng ung thư, trong đó có ung thư v_ú.
Các nghiên cứu toàn diện nhất về chủ đề này được một cặp vợ chồng nhà nhân chủng học y tế ứng dụng là Sydney Ross Singer và Soma Grismaijer tiến hành. Họ là tác giả của cuốn
Dressed to kill: the link between breast cancer and bras (Quần áo làm chết người: mối quan hệ giữa ung thư v_ú và áo ngực). Họ đã nhận thấy là những người Maori, dân tộc bản địa ở New Zealand, hòa nhập vào văn hóa phương Tây và bắt đầu thói quen mặc áo ngực, có tỷ lệ ung thư ngang với những người đồng trang lứa ở phương Tây. Mặt khác, những người thổ dân Úc chưa bị Tây hóa, thú vị thay lại gần như không mấy khi bị ung thư v_ú. Điều này cũng đúng với những người Nhật Bản, những người Fiji theo lối sống phương Tây và những phụ nữ ở các nền văn hóa khác đã chuyển sang lề thói mặc áo ngực; và khi đó, tỷ lệ ung thư v_ú của họ tăng vọt.
Đầu thập niên 1990, Singer và Grismaijer đã nghiên cứu thói quen mặc áo ngực ở 4.500 phụ nữ trong năm thành phố rải rác ở nước Mỹ. Họ nhận ra cứ 3 trong 4 phụ nữ mặc áo ngực 24 giờ mỗi ngày mắc ung thư v_ú. Trong số những người chỉ mặc áo ngực hơn 12 giờ mỗi ngày và không mặc khi đi ngủ, chỉ có 1 trong số 7 người mắc. Đây là tỷ lệ hơi cao so với tỷ lệ ung thư v_ú chung là 1 trong 8 người. Nếu so sánh, chỉ có 1 trong số 152 phụ nữ mặc áo ngực ít hơn 12 giờ mỗi ngày là bị ung thư v_ú và chỉ có 1 trong số 168 phụ nữ hiếm khi hoặc không bao giờ mặc áo ngực mắc ung thư v_ú. Nói cách khác, phụ nữ mặc áo ngực 24 giờ mỗi ngày có nguy cơ mắc ung thư v_ú cao gấp 125 lần những người hiếm khi hoặc không bao giờ mặc. Thật thú vị là, những người phụ nữ không mặc áo ngực có tỷ lệ ung thư v_ú bằng tỷ lệ này ở đàn ông!
Dậy thì sớm và ung thư v_ú
Những cô gái ở Hoa Kỳ và các quốc gia
hiện đại đang đến tuổi dậy thì rất sớm, và điều đó được chứng minh là làm tăng nguy cơ ung thư v_ú của họ. Chỉ mới vài chục năm trước, các dấu hiệu sinh học cho thấy tuổi dậy thì ở nữ giới - bắt đầu có kinh nguyệt, v_ú nở và phát triển lông mu và lông nách - thường xảy ra ở khoảng tuổi 13 hoặc hơn. Và đầu thế kỷ 20, tuổi dậy thì thường là 16 hoặc 17. Ngày nay, ngày càng nhiều bé gái mới chỉ 8 tuổi đã xuất hiện nhiều dấu hiệu trên. Có vẻ như là các cô gái Mỹ gốc Phi đặc biệt nhạy với hiện tượng dậy thì sớm. Hiện nay các bé chỉ 5 đến 6 tuổi là đã có dấu hiệu dậy thì trước tuổi (cũng được gọi là phát dục sớm). Dậy thì sớm khiến các bé gái có nhiều estrogen hơn - một nguy cơ lớn đối với ung thư v_ú do hoóc môn. Theo dữ liệu được nhà sinh học Sandra steingraber công bố, các bé gái có kỳ kinh nguyệt đầu tiên trước 12 tuổi có nguy cơ ung thư v_ú cao hơn 50% so với những bé bắt đầu kỳ kinh nguyệt ở tuổi 16. Theo bà, “Cứ lùi kỳ kinh nguyệt đầu tiên của một bé gái một năm, thì chúng ta có thể phòng ngừa được hàng ngàn ca ung thư v_ú.”
Trong số các nguyên nhân tiềm ẩn cho xu hướng này có tỷ lệ béo phì tăng cao và tính lười hoạt động ở trẻ nhỏ, sữa công thức từ bò và đậu nành dành cho trẻ em, hoóc môn tăng trưởng từ bò thường thấy trong sữa bò, hoóc môn và chất kháng sinh trong thịt bò, và các sản phẩm đậu nành không lên men, như sữa đậu nành và đậu phụ, có tác dụng như estrogen. Tác dụng giống estrogen của đậu nành còn vượt quá cả tác dụng giống estrogen của thuốc ngừa thai từ 4 đến 5 lần. (Xem thêm trong phần “Đậu nành - chất sinh ung thư” ở người dưới đây). Những nguyên nhân khác có thể bao gồm bisphenol A và phthalat (có trong nhiều loại nhựa, như các loại chai hộp đựng đồ ăn thức uống cho trẻ, chai nước và lớp lót thành bên trong lon nước ngọt), những hóa chất nhân tạo khác ảnh hưởng tới cân bằng hoóc môn (như những hóa chất được tìm thấy trong mỹ phẩm, kem đánh răng, dầu gội đầu và chất nhuộm tóc), những căng thẳng ở nhà và ở trường học, việc xem ti vi và sử dụng các phương tiện truyền thông quá nhiều.
Cho trẻ em ăn thức ăn rắn quá sớm cũng có thể tăng nguy cơ béo phì, một yếu tố quan trọng gây nguy cơ phát triển ung thư sau này. Trong một nghiên cứu được đăng trong tạp chí
Pediatrics, các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng những đứa trẻ được nuôi sữa công thức bắt đầu ăn thức ăn đặc trước bốn tháng có khả năng béo phì trước tuổi lên ba gấp 600% so với những đứa trẻ bắt đầu ăn sau đó.
Nghiên cứu này cũng nhận thấy sự khác biệt dinh dưỡng đáng kinh ngạc giữa sữa mẹ và sữa công thức cho trẻ. Sữa công thức thường chứa nhiều đường tinh chế và thành phần biến đổi gien, và điều đó cũng gia tăng khả năng béo phì ở trẻ lên đến 20%. Quyết định nuôi con bằng sữa mẹ không chỉ tốt hơn về mặt dinh dưỡng mà kháng thể tự nhiên trong sữa mẹ còn có thể giúp trẻ nhỏ chống nhiễm trùng trong giai đoạn vô cùng dễ tổn thương này.
Bóng đèn huỳnh quang gây ung thư
Nếu bạn thay bóng đèn dây tóc cũ bằng bóng đèn huỳnh quang compact (CFL) để tiết kiệm tiền và sống thân thiện với môi trường, thì bạn nên biết rằng một nghiên cứu của Đức đã phát hiện ra những bóng đèn này chứa các chất sinh ung thư độc hại. Những chất này bao gồm phenol, một chất độc mang tính axít nhẹ từ nhựa than đá (hắc ín), và styrene, một chất hyđrôcacbon dạng lỏng không bão hòa. Những chất độc này có thể sản sinh ra sương mù điện (electrical smog)
1 có thể ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe con người.
1 Thuật ngữ chỉ các loại bức xạ điện từ nhân tạo không gây ion hóa, phát ra từ các đồ dùng, thiết bị điện và điện tử thông thường có điện từ trường biến thiên, như điện thoại di động, máy tính, v.v… Với ngụ ý chúng gây ô nhiễm môi trường (BBT).Do đó, các nhà nghiên cứu khuyên dùng bóng đèn loại này càng ít càng tốt, trong điều kiện được thông gió tốt, và nhất là để chúng cách xa đầu. Giống như những nguồn ánh sáng nhân tạo khác, chúng có thể làm gián đoạn việc sản xuất melatonin trong cơ thể, được biết đến là một yếu tố khác gây ung thư cũng như gây ra chứng đau nửa đầu. Hơn nữa, nếu những bóng đèn này bị vỡ hoặc rạn nứt, chúng có thể rò bụi độc chứa thủy ngân ra ngoài.
Ngộ độc do đường
Chúng ta không nên ngạc nhiên về chuyện tiểu đường là yếu tố then chốt góp phần gây ra ung thư. Trên thực tế, tạp chí
Diabetes Care đã đăng vào tháng 5-2011 rằng bệnh tiểu đường có thể làm tăng gần như gấp đôi nguy cơ phát triển một loại ung thư nào đó.
Một nghiên cứu khác gợi ý rằng một đứa trẻ Mỹ bình thường tiêu thụ đến gần hai cân đường
mỗi tuần. Thông tin gây sốc này phần lớn là kết quả của cuộc tình nồng nàn của người Mỹ với thức ăn vặt vô bổ, những bữa ăn chế biến sẵn và nước ngọt chứa đường. Và lối sống lan nhanh như bệnh dịch này đang tạo ra nhiều ca tiểu đường mới với tốc độ đáng báo động.
Do đó chẳng cần nói cũng biết phòng tránh tiểu đường là một việc quan trọng thế nào để phòng ngừa ung thư. Hay ho ở chỗ,
thần dược được đề cập đến ở đầu cuốn sách này - vitamin D - lại là một cách để làm điều đó. Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm y tế Tufts ở Boston đã phát hiện ra 2.000 IU (đơn vị quốc tế) vitamin D mỗi ngày trong 12 tuần có thể cải thiện rõ rệt chức năng của tuyến tụy cho những người lớn quá cân ở giai đoạn tiền tiểu đường. Cứ tăng mỗi 5 ng/ml mức vitamin D, thì giảm 8% nguy cơ tiểu đường.
Hơn nữa, nếu bạn có ung thư, điều quan trọng là bạn nên dừng ăn đường tinh chế, được chế biến ngay tức khắc. Đường tinh chế không chứa một chút chất dinh dưỡng cần thiết nào để đồng hóa
1 số đường đã được ăn vào. Tiêu thụ những loại đường này đã làm cạn kiệt kho dự trữ chất dinh dưỡng và năng lượng của cơ thể (nếu còn bất cứ chất nào), chẳng còn lại mấy (hoặc chẳng còn lại chút nào) cho các nhiệm vụ khác. Ung thư không bao giờ giết người; chỉ có việc loại bỏ các mô cơ quan mới lấy đi tính mạng. Ung thư và việc loại bỏ đó đi liền với nhau. Ăn đường sẽ nuôi dưỡng các tế bào ung thư trong khi làm tế bào khỏe mạnh đói khát.
1 Đồng hóa (assimilation) là quá trình tổng hợp các chất đơn giản thành các chất phức tạp trong cơ thể, ngược lại với dị hóa (BBT).Các chất tạo ngọt tự nhiên như stevia và Xylitol không cướp đi nguồn dinh dưỡng và năng lượng của cơ thể. Stevia không có chút calo nào, bởi thế nó không thể làm thức ăn cho các tế bào ung thư. Xylitol chứa calo (ít hơn đường khoảng 40%), nhưng nó đi vào máu rất chậm nên chỉ số đường huyết thực phẩm (glycemic index) của nó cũng thấp hơn nhiều. Nếu ăn vừa phải, Xylitol không gây ra vấn đề gì. Tuy nhiên, cacbohyđrat tinh chế, như pasta, bánh mỳ trắng, bánh ngọt, nhanh chóng được phân giải thành glucose và hoạt động như đường tinh chế. (Lưu ý: cacbohyđrat phức hợp, được tìm thấy trong ngũ cốc nguyên khai và gạo trắng Basmati được vo nước cũng tốt, nhưng tránh hầu hết các loại gạo trắng đánh bóng vì giá trị dinh dưỡng của nó đã bị rút kiệt.)
Rõ ràng là chúng ta nên tránh đồ ăn thức uống chứa nhiều đường, như sô cô la, kem và nước ngọt có ga. Các thực phẩm từ sữa gây tắc nghẽn mạch bạch huyết như sữa, sữa chua và pho mát cũng không có chỗ trong bữa ăn của ai đó đang muốn chữa khỏi ung thư, mặc dù bơ nhạt (không mặn) thì an toàn. Nhắc lại, tế bào ung thư là những tế bào bình thường đã trở thành kỵ khí - chúng bị buộc phải dừng kết hợp với ôxy và lấy chất bổ cũng như năng lượng từ những loại đường như lactose và glucose. Do đó, tránh những thực phẩm chứa chúng là khôn ngoan.
Đậu nành - một chất sinh ung thư ở người?
Ngành thực phẩm, vận hành theo cách tương tự ngành dược, đã thuyết phục được dân chúng rằng đậu nành có ích cho sức khỏe. Đậu nành thậm chí còn được ca ngợi là thức ăn thần kỳ sẽ cứu thế giới khỏi nạn đói. Những người ủng hộ đậu nành tuyên bố nó có thể cung cấp nguồn protein lý tưởng, làm giảm cholesterol, phòng vệ chống ung thư và bệnh tim, làm dịu bớt các triệu chứng mãn kinh và tránh loãng xương. Tuy nhiên, khi bạn nhìn vượt ra khỏi thông tin tuyên truyền, sự thực về đậu nành lại vẽ nên một bức tranh rất khác. Mặc dù đậu nành có hàm lượng dinh dưỡng ấn tượng, nhưng các sản phẩm từ nó về mặt sinh học lại vô ích cho cơ thể, vì những lý do được giải thích dưới đây. Ngày nay, đậu nành được sử dụng trong hàng ngàn sản phẩm thức ăn khác nhau, dẫn đến gia tăng diện rộng bệnh tật ở cả các nước phát triển và đang phát triển.
Đậu nành chứa một số hợp chất can thiệp vào quá trình hấp thụ vitamin và chất khoáng. Ví dụ, axít phytic trong đậu nành dẫn đến thiếu hụt canxi, magiê, đồng, molipđen, sắt, mangan, và đặc biệt là kẽm trong đường tiêu hóa, cũng như vitamin E, K, D và B12. Người ta cũng ước đoán rằng 100 gram protein đậu nành đã có thể cung cấp đủ lượng estrogen như một viên thuốc tránh thai. Nó cũng chứa haemaglitinin, một chất thúc đẩy tạo huyết khối, gây nguy cơ cao tắc động mạch và đột quỵ.
Với việc đậu nành được trồng ở các trang trại sử dụng thuốc trừ sâu và trừ cỏ độc hại gây ung thư - và nhiều nơi trồng cây biến đổi gen
1 - nên càng có nhiều bằng chứng cho thấy đậu nành là một yếu tố nguy hiểm nghiêm trọng với sức khỏe. Thêm nữa, quá trình chế biến đậu nành điển hình thường bao gồm công đoạn rửa bằng axít hạt đậu trong các bể nhôm, do đó nhôm độc hại có thể thấm vào sản phẩm ở mức cao. Ngoài vài sản phẩm ngoại lệ như miso, tempeh
2 và các sản phẩm đậu nành được lên men cẩn thận khác, đậu nành không phù hợp cho con người tiêu thụ. Ăn đậu nành, sữa đậu nành và đậu phụ thường xuyên sẽ làm tăng nguy cơ mắc các trọng bệnh. Bên cạnh đó, đậu nành hay gây dị ứng. Nhiều nghiên cứu đã nhận thấy các sản phẩm từ đậu nành:
1 Ở Hoa Kỳ, 80% đậu nành là từ cây đậu nành biến đổi gien (TG).
2 Miso: một loại gia vị của Nhật Bản rất giống tương Việt Nam. Tempeh là một loại bánh của Indonesia làm từ đậu nành lên men (BBT).• Gia tăng nguy cơ ung thư v_ú ở phụ nữ, tổn thương não ở cả đàn ông và phụ nữ và những dị tật ở trẻ sơ sinh.
• Góp phần gây rối loạn tuyến giáp, đặc biệt ở phụ nữ.
• Thúc đẩy hình thành sỏi thận (vì dư thừa mức oxalat kết hợp với canxi trong thận).
• Làm yếu hệ miễn dịch.
• Gây ra những chứng dị ứng thực phẩm nghiêm trọng, tiềm ẩn nguy cơ chết người.
• Giảm nhanh trọng lượng não ở những người lớn tuổi.
Các sản phẩm từ đậu nành chứa:
• Phytoestrogen (isoflavone) genistein và daidzein, những chất này bắt chước và thỉnh thoảng chặn đứng hoóc môn estrogen.
• Axít phytic, làm giảm hấp thụ nhiều vitamin và chất khoáng, trong đó có canxi, magiê, sắt và kẽm và do đó gây thiếu chất khoáng.
•
Chất kháng dinh dưỡng hoặc chất ức chế enzyme, ức chế những enzyme cần thiết để tiêu hóa protein và hấp thụ axít amin.
• Haemaggluttin (chất làm vón máu), gây vón hồng cầu và ức chế hấp thụ ôxy và tăng trưởng.
• Chất ức chế trypsin, có thể gây phì đại tuyến tụy và cuối cùng là ung thư.
Các phytoestrogen là những tác nhân kháng tuyến giáp rất mạnh, có trong đậu nành với lượng lớn. Trẻ sơ sinh chỉ được nuôi bằng sữa công thức dựa trên đậu nành có hợp chất estrogen trong máu cao gấp 13.000 đến 22.000 lần trẻ em được uống sữa công thức dựa trên sữa bò. số estrogen này tương đương với estrogen trong ít nhất năm viên thuốc tránh thai mỗi ngày. Vì lý do này mà dậy thì sớm ở các bé gái, cũng như chậm phát triển ở bé trai, có liên quan đến việc sử dụng sữa công thức từ đậu nành. Sữa công thức từ đậu nành dành cho trẻ em và sữa đậu nành có liên quan đến bệnh tuyến giáp tự miễn và có thể dẫn tới tử vong.
Năm 2007, một cặp vợ chồng bị kết tội giết người và phải chịu án tù chung thân vì để đứa con 6 tuần tuổi của họ đói đến chết bằng cách cho bé uống sữa đậu nành và nước táo ép. Các chuyên gia về đậu nành lại một lần nữa đang kêu gọi phải dán nhãn mác rõ ràng và đủ thông tin cảnh báo trên tất cả các sản phẩm sữa đậu nành sau sự kiện này và sau khi nhiều đứa trẻ khác phải nhập viện hoặc chết trong những hoàn cảnh tương tự.
Chỉ duy nhất các sản phẩm từ đậu nành như miso, tempeh và natto cung cấp chất dinh dưỡng mà cơ thể hấp thụ dễ dàng và sử dụng được. Để các sản phẩm từ đậu nành giàu dinh dưỡng và lành mạnh, chúng phải được lên men cẩn thận, theo những phương pháp chế biến truyền thống được sử dụng ở Nhật Bản. Thường thì, đậu nành phải được lên men ít nhất qua hai mùa hè, lý tưởng ra là 5 - 6 năm, thì nó mới có lợi cho cơ thể.
Một nghiên cứu trên 700 người Indonesia cao tuổi đã chỉ ra rằng đậu nành lên men đúng cách, như tempeh, miso, natto và giá đậu nành (không biến đổi gien), có ích cho việc cải thiện trí nhớ, đặc biệt ở những đối tượng tham gia trên 68 tuổi. Nghiên cứu cũng chứng thực rằng tiêu thụ nhiều đậu phụ (ít nhất một lần mỗi ngày) sẽ đi kèm với chứng sa sút trí tuệ, nhất là ở những người trên 68 tuổi. Nghiên cứu này được đăng trên Dementia and Geriatric Cognitive Disorders, ngày 27-6- 2008; 26(1):50-57- Nếu bạn muốn tránh chứng sa sút trí tuệ, thì hãy tránh tất cả các món sữa đậu nành đã chế biến, đậu phụ, bánh kẹp đậu nành, kem đậu nành, pho mát đậu nành và những thức ăn vặt linh tinh khác có chứa đậu nành.
Mặc dù có nhiều bằng chứng khoa học chứng minh rằng đậu nành không lên men là sản phẩm sinh ung thư và cũng làm tổn hại ADN và nhiễm sắc thể, nhưng ngành thực phẩm đậu nành nhiều tỉ đô la vẫn biến thứ thực phẩm phần lớn là vô dụng này thành một trong những
thức ăn giàu dinh dưỡng được sử dụng rộng rãi nhất mọi thời đại. Trong một văn bản, phát ngôn viên của công ty Protein Technologies, Inc. nói rằng họ đã có đội ngũ luật sư để nghiền nát những kẻ phản đối, có thể mua các nhà khoa học để đưa ra bằng chứng, sở hữu các kênh truyền hình và báo chí, có thể lèo lái các trường y và thậm chí có thể gây ảnh hưởng tới chính phủ...”
Chuyên gia về lipid và cũng là nhà dinh dưỡng, tiến sĩ Mary Enig giải thích một trong những lý do chính đằng sau cuộc cách mạng đậu nành này. Bà nói: “Nguyên nhân vì sao có quá nhiều đậu nành ở Mỹ đến vậy là họ (ngành đậu nành) bắt đầu trồng đậu nành để chiết xuất dầu và dầu đậu nành đã trở thành một ngành rất lớn. Một khi họ có nhiều dầu để làm nguồn cung thực phẩm, thì họ có nhiều bã protein đậu còn bỏ lại, và bởi lẽ họ chỉ có thể cho gia súc ăn một lượng rất nhỏ, nên họ phải tìm thị trường khác cho nó.” Nói cách khác, con người đã trở thành một thùng chứa rác hiệu quả và được việc cho ngành công nghiệp thực phẩm, trong khi ngành y ngày càng ăn nên làm ra vì được điều trị cho nhiều chứng bệnh do đậu nành gây ra. Điều này không hề khác với việc đổ florua độc hại - một sản phẩm thải nguy hại từ các nhà máy nhôm - vào hệ thống cấp nước đô thị để
cứu trẻ khỏi bị mọc răng xấu, kém. Thải loại florua theo cách khác thì cực kỳ tốn kém.
Các loài động vật lên men tự nhiên cho thức ăn trong bụng trước khi hấp thụ chúng có thể phân giải các chất ức chế enzyme có trong đậu nành và rồi sử dụng protein. Không phải tất cả các loại thực phẩm được nuôi trồng trên hành tinh này cũng đều có ích cho con người. Trên thực tế, động vật cư ngụ trên hành tinh này rất lâu trước con người; do đó, hầu hết thức ăn thực ra được tạo ra để nuôi sống và duy trì giới động vật. Gần đây việc bổ sung lượng lớn đậu nành không lên men vào chuỗi thức ăn của con người đã có những hậu quả tai hại cho sức khỏe của hàng triệu con người và sẽ tiếp tục như thế nếu người dân không tự tìm hiểu về những trò bịp bợm của ngành thực phẩm và các cơ quan chính phủ được cho là bảo vệ chúng ta khỏi những hiểm nguy.
Tại sao khoai tây chiên có thể gây ung thư
Khoai tây chiên và những thực phẩm giàu cacbohyđrat khác ở dạng rán (chiên), nướng hoặc rang, xào chứa hóa chất acrylamide, được đánh dấu là chất sinh ung thư ở người. Phụ nữ ăn khoảng một suất khoai tây chiên mỗi ngày có thể tăng gấp đôi nguy cơ mắc ung thư buồng trứng và niêm mạc tử cung, theo một nghiên cứu được đăng trên tạp chí
Cancer Epidemiology, Biomarker & Prevention.
Acrylamide được các nhà khoa học Thụy Điển vô tình phát hiện trong thực phẩm vào tháng 4-2002 khi họ tìm thấy một lượng lớn hóa chất trong khoai tây chiên và bánh mì được hâm nóng ở nhiệt độ trên 120 độ C. Trước đó, người ta tin rằng acrylamide chỉ là một hóa chất công nghiệp. Việc sản sinh ra acrylamide trong quá trình đun nóng được chứng minh là rõ ràng phụ thuộc vào nhiệt độ. Nấu quá nhiệt và hâm nóng thức ăn trong lò vi sóng cũng có thể sinh ra một lượng lớn acrylamide. Thức ăn luộc hoặc không được gia nhiệt không chứa acrylamide.
Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học kiểm tra dữ liệu được Nghiên cứu Đoàn hệ Hà Lan (NLCS) thu thập về chế độ ăn uống và sự xuất hiện ung thư ở 62.573 phụ nữ. Những người
ăn nhiều acrylamide nhất, 40,2 microgram mỗi ngày, có nguy cơ mắc ung thư niêm mạc tử cung cao hơn 29% và nguy cơ ung thư buồng trứng cao hơn 78%. Thật bất ngờ, trong số những người hấp thụ acrylamide nhiều nhất, những phụ nữ không bao giờ hút thuốc có tỷ lệ mắc ung thư niêm mạc tử cung cao hơn 99% và ung thư buồng trứng cao hơn 122%.
Tạp chí
Journal of the American Medical Association (JAMA) số ra ngày 15-3-2005 có một bài viết nhan đề “Hấp thụ acrylamide và nguy cơ ung thư v_ú ở phụ nữ Thụy Điển”, của Lorelei A. Mucci, tiến sĩ khoa học (ScD), thạc sĩ Y tế Công cộng (MPH). Đoàn hệ là đối tượng nghiên cứu gồm 43.404 phụ nữ Thụy Điển trong Đoàn hệ Lối sống và sức khỏe Phụ nữ (Women’s Lifestyle and Health Cohort). Nguồn acrylamide lớn nhất mà họ nạp vào người là từ cà phê (54% tổng số acrylamide), khoai tây chiên (12%) và bánh mỳ nướng giòn (9%).
Đèn điện và ung thư
Như đã giải thích bên trên, có một mối liên kết mạnh giữa mức hoóc môn melatonin thấp và ung thư. Theo Russell Reiter, giáo sư sinh học tế bào và kết cấu ở Trường Đại học Texas, melatonin bảo vệ vật chất di truyền để không bị đột biến. Trong một buổi họp ở London, ông phát biểu: “Đèn chiếu sáng ban đêm ức chế việc sản sinh melatonin của cơ thể và do đó có thể gia tăng nguy cơ đột biến liên quan đến ung thư.” Scott Davis, trưởng khoa dịch tễ học ở Đại học Washington đã nói rằng “trong khi mối liên hệ giữa ánh sáng đèn ban đêm và ung thư chỉ giống như một vệt kéo căng trên bề mặt, thì có cả một cơ sở sinh học ngầm bên dưới hỗ trợ điều đó.” Cả Davis và Reiter đều đang nghiên cứu tác động của ánh sáng ban đêm đến việc sản xuất hoóc môn nữ mà đến lượt nó, lại có thể tác động đến nguy cơ ung thư v_ú. “Chúng tôi đã nhận thấy có mối quan hệ giữa ánh sáng điện ban đêm và làm việc ca đêm với nguy cơ ung thư v_ú,” Davis nói. “Các nghiên cứu cho thấy làm việc ban đêm gây gián đoạn hoạt động của melatonin, dẫn tới sản xuất dư thừa hoóc môn ở phụ nữ.”
Việc tiết melatonin kiểm soát chu kỳ thức/ngủ bình thường trong cơ thể đồng thời tác động đến huyết áp, nhiệt độ cơ thể và độ nhạy insulin. Một nguồn phát sáng đơn độc trong giấc ngủ cũng đủ để quấy rối nhịp sinh học ngày đêm vô cùng quan trọng và tác động xấu tới việc sản xuất melatonin. Cơ thể cần 7 đến 9 tiếng ngủ không gián đoạn, không có ánh sáng quấy nhiễu để tự tái tạo bản thân và duy trì sức khỏe tối ưu. Tuân thủ quy tắc đơn giản này có thể cải thiện tình trạng sức khỏe chung và
niềm yêu đời của bạn, đó là chưa kể đến việc bạn giảm được nhiều nguy cơ ung thư.
Melatonin, được tiết ra trong khoảng thời gian 9 giờ 30 tối và đạt mức đỉnh vào khoảng 1 giờ sáng, cũng kiểm soát một gien rất mạnh đảm bảo các tế bào không sống quá tuổi thọ bình thường của chúng. Nếu chúng sống lâu hơn dự trù, thì chúng sẽ trở thành ung thư. Thông điệp ở đây là hãy ngủ ít nhất 8 tiếng mỗi ngày, bắt đầu từ 10 giờ đêm. Hãy tắt hoặc che chắn bất cứ thứ ánh sáng nhân tạo nào xung quanh bạn để tối đa hóa lợi ích của một giấc ngủ ngon.
Bên cạnh đó, như đã đề cập, hãy ra ngoài trời đều đặn mà không sử dụng kính râm hoặc kem chống nắng. Đây là hai biện pháp hiệu quả nhất để điều trị và phòng tránh ung thư. Tia tử ngoại mang tính diệt trùng (UV-C) giết chết các tế bào vi trùng bằng cách làm tổn hại ADN của chúng. Ánh sáng này kích hoạt một phản ứng giữa hai phân tử thymine, là một trong những bazơ tạo thành ADN. Tia tử ngoại ở bước sóng này (UV bước sóng ngắn hoặc UV-C) khiến các phân tử thymine liền kề trên ADN bị dime hóa (nhị trùng hóa). Dime thymine hình thành sau đó rất ổn định. Nếu có đủ những lỗi này tích tụ trong một ADN của vi sinh vật, thì nó sẽ bị ức chế nhân đôi, do đó, trở nên vô hại.
Càng tiếp xúc lâu với tia UV-C, càng hình thành nhiều dime thymine trong ADN. Nếu các quá trình của tế bào bị gián đoạn vì tổn hại ADN, thì tế bào đó không thể thực hiện được chức năng bình thường của nó. Nếu tổn hại này lan rộng, tế bào đó sẽ chết.
Cả UV-C có tính sát trùng lẫn UV-B làm rám nắng cộng với sản sinh vitamin D đều tham dự vào quá trình này. Thú vị là, người ta thường cho rằng dân số ở những nơi khí hậu nóng, tiếp xúc với mặt trời nhiều nhất thì ắt phải có tỷ lệ u hắc tố cao nhất, nhưng thực ra không phải vậy. Như đã lưu ý ở trên, ung thư da xảy ra chủ yếu ở những người sống tại nơi ít được tiếp xúc với mặt trời nhất trên thế giới, ở những người thường xuyên thiếu hụt vitamin D, những người dùng kem chống nắng để
bảo vệ làn da của họ, và ở những người chủ yếu sống trong nhà.
Cũng có những thực phẩm nhất định (thực phẩm có tính axít mạnh như chất béo trans từ thức ăn rán, thịt, pho mát tan chảy, khoai tây chiên, nước ngọt có ga, rượu, v.v…) và các hóa chất khi được ăn vào hoặc được bôi lên da dưới dạng kem chống nắng chứa chất sinh ung thư sẽ phản ứng với các tia UV, điều này có thể dẫn đến đáp ứng viêm hoặc đột biến tế bào.
Giả thiết cho rằng chỉ đột biến tế bào thôi cũng có thể dẫn đến ung thư hiện đã bị nghiên cứu bác bỏ. Nó là một yếu tố cần thiết, nhưng trước đó cũng cần có sẵn những thay đổi môi trường tế bào thì đột biến này mới có thể tiến triển tới mức phân bào bất thường và phát triển khối u. Một lần nữa, thật sai lầm và lạc hướng khi tuyên bố rằng mặt trời có thể gây ung thư. Theo quan điểm của tôi, đột biến tế bào là một đáp ứng điều chỉnh sinh học để tế bào có thể sống sót sau khi đã phơi nhiễm với những chất rất độc hại, nguy hiểm và để đối phó với những hiệu ứng hóa học của những căng thẳng cảm xúc và thể chất.
Mặt trời chỉ giúp cho đáp ứng này có khả năng xảy ra, chứ không thể gây ra nó mà không có các đồng yếu tố khác. Thiếu vitamin D và căng thẳng cảm xúc, cả hai đều ức chế hệ miễn dịch, là các đồng yếu tố, và bởi thế thiếu ngủ, đồ ăn vặt vô bổ, thuốc men y tế và tắc nghẽn ống mật trong gan cũng vậy. Ung thư, nếu có xảy ra, cũng là cơ chế chữa lành, chứ không phải là nguyên nhân, của một bệnh. Nếu nó bị trấn áp hoặc bị tấn công và các nguyên nhân gốc rễ vẫn còn đó, thì quá trình chữa lành này sẽ dừng lại và các triệu chứng biến mất hoặc suy giảm - điều này bị hiểu nhầm là bệnh tình thuyên giảm - chỉ để rồi sẽ quay lại và lợi hại hơn xưa. Nếu các đồng yếu tố này được loại bỏ và ung thư được hỗ trợ thông qua các giai đoạn chữa lành khác nhau, thì nó sẽ tự biến mất và không tái phát nữa.
Ô nhiễm không khí và căng thẳng ở thành phố
Như NaturalNews.com thông báo vào tháng 5-2008, một nghiên cứu ở Canada đã chứng minh rằng phụ nữ nào có v_ú chứa từ 25% mô đặc trở lên thì có nguy cơ ung thư v_ú gấp 5 lần so với phụ nữ có v_ú nhiều mỡ hơn. Nghiên cứu này cũng nhận ra ở phụ nữ có v_ú đặc nguy cơ mắc một khối u v_ú được phát hiện trong vòng một năm sau khi chụp X quang tuyến v_ú âm tính nhiều hơn gấp 18 lần.
Nghiên cứu do Bệnh viện Vương phi Grace ở London (Anh) thực hiện năm 2007 và trình bày trước Hội X quang Bắc Mỹ cho thấy phụ nữ sống và làm việc trong các thành phố có nguy cơ mắc ung thư v_ú lớn hơn nhiều so với những phụ nữ sống ở thôn quê. Để xác định lý do của hiện tượng này, các nhà nghiên cứu đã khảo sát mô v_ú của 972 phụ nữ nước Anh ở độ tuổi từ 45 đến 54. Họ phát hiện v_ú của những người sống và làm việc trong các thành phố có mô đặc chiếm 25% trở lên nhiều gấp đôi phụ nữ nông thôn.
Các nhà nghiên cứu đặt ra giả thuyết là có thể dân cư thị thành tăng mật độ v_ú vì các chất độc trong không khí ô nhiễm đã làm gián đoạn hoóc môn. Theo họ, căng thẳng cũng có thể là một yếu tố.
Ở đây, tôi muốn bổ sung là thủ thuật chụp X quang tuyến v_ú được quảng bá mạnh cũng có thể góp phần gây ra ung thư v_ú ở phụ nữ có mô v_ú đặc hơn, vì đã làm tổn thương nó. Mô v_ú mỡ hơn, mềm hơn có thể chống đỡ được tác động tổn thương tiềm tàng của việc sàng lọc này tốt hơn nhiều.
Lò vi sóng
Đã bao giờ bạn từng băn khoăn là vi sóng đã làm gì với nước, với thức ăn và với cơ thể bạn chưa? Các nhà nghiên cứu Nga đã phát hiện ra giá trị dinh dưỡng suy giảm, các hợp chất sinh ung thư và phân ly phóng xạ nguy hiểm cho não trong gần như tất cả các thức ăn được nấu nướng trong lò vi sóng. Theo nghiên cứu này, ăn quá nhiều bữa ăn hâm nóng như thế cũng có thể gây mất trí nhớ và mất tập trung, bất ổn định cảm xúc và suy giảm trí tuệ. Trong khi nghiên cứu về giá trị dinh dưỡng của thức ăn được nấu trong lò vi sóng, các nhà khoa học Nga này đã phát hiện ra sự suy giảm đáng kể trong
trường năng lượng sống của họ. Điều này được ghi nhận trong tới 90% thức ăn được chế biến bằng lò vi sóng.
Bên cạnh đó, các vitamin B complex, C và E liên quan đến việc giảm căng thẳng và phòng tránh ung thư và bệnh tim, cũng như những khoáng chất vi lượng cần thiết cho hoạt động tối ưu của não và cơ thể, bị lò vi sóng biến thành vô dụng, dù chỉ trong khoảng thời gian nấu nướng rất ngắn ngủi. Thức ăn nấu bằng vi sóng bị giảm hàm lượng dinh dưỡng đến mức chẳng khác gì các tấm bìa các tông. Một nghiên cứu đã chứng minh điều này bằng cách so sánh các cây được tưới nước đã qua lò vi sóng với cây tưới nước bình thường; chỉ trong vòng 7 ngày, các cây tưới nước lò vi sóng đã chết.
Nếu bạn không muốn thiếu hụt chất dinh dưỡng, bạn nên loại bỏ thiết bị này khỏi căn bếp nhà mình. Bên cạnh đó, tất cả các lò vi sóng đều có những chỗ rò rỉ không thể tránh khỏi. Do đó, bức xạ tích tụ trong các đồ dùng trong bếp, và chúng lại trở thành nguồn bức xạ.
Sử dụng lò vi sóng để đun nấu thức ăn dẫn đến các chứng rối loạn bạch huyết và làm mất khả năng phòng thủ của cơ thể trước các loại ung thư nhất định. Nghiên cứu này đã nhận thấy tỷ lệ hình thành tế bào ung thư tăng trong máu của những người ăn thức ăn nấu bằng lò vi sóng. Những người Nga này cũng thông báo về tỷ lệ gia tăng ung thư dạ dày và đường ruột, rối loạn tiêu hóa và bài tiết, tỷ lệ phần trăm u tế bào cao hơn, trong đó có cả saccôma (ung thư mô liên kết).
Công nghệ vi sóng lần đầu tiên được sử dụng ở Đức vào thập niên 1930. Đầu chiến tranh thế giới thứ 2, các nhà khoa học Đức đã phát triển một hệ thống ra đa dựa trên vi sóng tạo ra bằng máy móc kỹ thuật. Trong suốt mùa đông lạnh giá khắc nghiệt, những người lính ngồi quây quần bên màn hình ra đa để lấy hơi ấm, nhưng rồi họ mắc ung thư máu.
Sau đó, quân đội Đức bỏ không dùng ra đa nữa. Tuy nhiên, sau khi các nhà khoa học Đức biết rằng vi sóng làm nóng mô cơ thể người, họ nghĩ rằng những sóng này cũng có thể đun nóng thức ăn, thế là họ phát minh ra lò vi sóng để cung cấp cho những người lính Đức những bữa ăn ấm bụng để chiến đấu với Liên Xô. Tuy nhiên, những người lính ăn thức ăn nấu trong lò vi sóng này cũng mắc ung thư máu, giống như những kỹ thuật viên ra đa. Kết quả của phát hiện này là lò vi sóng bị cấm sử dụng trên khắp Đức Quốc xã.
Ngày nay, vi sóng có an toàn hơn 80 năm trước không? Chắc chắn là không rồi vì vẫn là công nghệ ấy. Vi sóng tách rời các liên kết phân tử vốn có tác dụng làm cho thức ăn trở thành những chất giàu dinh dưỡng. Chúng phóng vi sóng tần số cao đun sôi chất ẩm trong thức ăn và bao bì bằng cách lắc các phân tử nước qua lại với tốc độ hơn 1 tỷ lượt đảo chiều mỗi giây. Sự ma sát dữ dội này bẻ gãy các phân tử thức ăn, tái sắp xếp cấu tạo hóa học của chúng thành những cấu hình mới kỳ dị mà cơ thể con người không thể nhận ra đó là thức ăn. Do sự phá hủy cấu tạo phân tử của thức ăn, cơ thể không thể làm gì khác ngoài việc biến thức ăn này thành chất thải - không phải là chất thải vô hại, mà là chất thải hạt nhân.
Những tác dụng phụ khác của việc phơi nhiễm vi sóng:
• Huyết áp cao
• Suy kiệt tuyến thượng thận
• Bệnh tim
• Đau nửa đầu
• Chóng mặt nhẹ
• Mất trí nhớ
• Suy nghĩ lan man rời rạc
• Lo lắng
• Gia tăng cáu bẳn
• Trầm cảm
• Rối loạn giấc ngủ
• Đau dạ dày
• Viêm ruột thùa
• Đục thủy tinh thể
• Rối loạn chú ý
• Tổn hại não
• Rụng tóc
• Rối loạn chức năng sinh sản
Ăn thức ăn bị tổn hại do lò vi sóng có thể dẫn đến một đáp ứng stress đáng kể trong cơ thể, do đó làm thay đổi thành phần hóa học của máu. Ví dụ, ăn rau hữu cơ được nấu nhanh bằng lò vi sóng sẽ khiến mức cholesterol của bạn tăng vọt. Theo nhà khoa học Thụy Sĩ, bác sĩ Hans U. Hertel, “mức cholesterol trong máu ít bị ảnh hưởng bởi lượng cholesterol của thức ăn hơn so với các yếu tố căng thẳng.” Trong khi chính phủ Nga cấm lò vi sóng vào năm 1976 vì một lý do rất hợp lý, thì những thiết bị này đã có một vai trò nổi bật trong bếp ăn hàng ngày của 90% hộ gia đình Mỹ.
Báo cáo cho
Forensic Research Document of Agricultural and Resource Economics (Tài liệu nghiên cứu pháp lý về Kinh tế nông nghiệp và tài nguyên - AREC), William P. Kopp viết: “Tác động của phụ phẩm của thức ăn nấu lò vi sóng là dài hạn và vĩnh viễn ở cơ thể con người. Các chất khoáng, vitamin và chất dinh dưỡng của tất cả thức ăn được nấu bằng lò vi sóng bị giảm xuống hoặc thay đổi đến mức cơ thể người thu được rất ít hoặc không thu được lợi ích gì, hoặc cơ thể hấp thụ các chất đã bị thay đổi mà không phân rã được chúng.”
Lò vi sóng biến thức ăn lành mạnh thành chất độc chết người. Hãy nhìn vào nạn dịch ung thư chưa từng có ở nước Mỹ và các nước khác chủ yếu dựa vào lò vi sóng để nấu nướng, thì sẽ là thông minh nếu chúng ta đồng loạt dừng sử dụng chúng.
Mất nước
Ung thư thường xảy ra ở những khu vực mất nước trầm trọng. Nhiều người bị mất nước mà không ý thức được điều đó. Mất nước là tình trạng tế bào không nhận đủ nước cho các quá trình trao đổi chất cơ bản. Các tế bào có thể mất nước vì một số lý do như:
• Thiếu nước nạp vào (uống ít hơn 6 cốc nước lọc mỗi ngày).
• Thường xuyên uống đồ uống có các tác dụng lợi tiểu, như cà phê, trà có caffein, thức uống có ga như nước ngọt có ga, và thức uống có cồn trong đó có bia và rượu.
• Thường xuyên tiêu thụ các đồ ăn có chất kích thích (hoặc chất kích thích) như thịt, gia vị cay, sô cô la, đường, thuốc lá, ma túy, đồ uống có ga, chất tạo ngọt nhân tạo và những thứ tương tự.
• Căng thẳng.
• Uống thuốc dù ít hay nhiều.
• Tập thể dục quá sức.
• Ăn quá nhiều và tăng cân quá mức.
• Xem ti vi quá nhiều mỗi ngày.
Mất nước rõ ràng là đi kèm với cảm giác khát, da khô, nước tiểu sẫm màu hoặc mùi hôi, và mệt mỏi. Tuy nhiên, cũng có nhiều triệu chứng thường bị bỏ qua khác của chứng mất nước mạn tính, như ợ nóng, táo bón, nhiễm trùng đường tiểu, lão hóa sớm, cholesterol cao và tăng cân.
Mất nước làm đặc máu, do đó buộc tế bào phải từ bỏ nước. Nước trong tế bào được dùng để phục hồi độ loãng của máu. Tuy nhiên, để tránh tự tiêu diệt, các tế bào bắt đầu giữ nước, bằng cách tăng độ dày của màng tế bào. Cholesterol, một chất giống như đất sét, bắt đầu bao bọc quanh tế bào, do đó ngăn tế bào mất nước. Mặc dù biện pháp khẩn cấp này trước mắt có thể giữ được nước và cứu sống tế bào nhưng nó cũng giảm khả năng hấp thụ nước mới cũng như những chất dinh dưỡng đang rất cần thiết. Do đó, một phần nước và chất dinh dưỡng mà tế bào không thể hấp thụ sẽ tích tụ trong các mô liên kết xung quanh tế bào, gây ra tình trạng sưng phù cơ thể và giữ nước ở hai ống chân, thận, mặt, mắt, cánh tay và những bộ phận khác. Điều này dẫn tới tăng cân đáng kể. Đồng thời, huyết tương và dịch bạch huyết trở nên đặc và tắc nghẽn. Mất nước cũng ảnh hưởng đến độ lỏng tự nhiên của mật, do đó thúc đẩy hình thành sỏi mật. Tất cả những tác nhân này kết hợp lại đủ để kích hoạt cơ chế sinh tồn là đột biến tế bào.
Trà, cà phê, các thức uống có ga và sô cô la đều có chất độc và chất kích thích thần kinh là caffein. Chất kích thích độc hại này kích thích tuyến thượng thận và, ở một mức nào đó, kích thích nhiều tế bào cơ thể, giải phóng các hoóc môn stress là ađrênalin và cortisol vào dòng máu. Năng lượng đột ngột tăng vọt trong trường hợp này thường được gọi là phản ứng chiến-hay-biến.
Tuy nhiên, nếu tiếp tục tiêu thụ các chất kích thích này đều đặn thì phản ứng phòng vệ tự nhiên này của cơ thể sẽ bị sử dụng quá nhiều và mất hiệu quả. Việc tiết gần như liên tục các hoóc môn stress, vốn là những hợp chất có độc tính cao, cuối cùng cũng làm thay đổi thành phần hóa học của máu và gây tổn hại hệ miễn dịch, hệ nội tiết và hệ thần kinh. Bộ não nguyên sơ không phân biệt những căng thẳng vặt với những tình huống nghiêm trọng chiến-hay-biến, và đáp ứng với cả hai trường hợp bằng cách tiết hoóc môn cortisol, chặn đứng việc tổng hợp protein khi nó chuẩn bị cho cơ thể phản ứng với tác nhân gây căng thẳng. Khi chuyện đó xảy ra thường xuyên, những đáp ứng phòng vệ sẽ bị suy yếu, cơ thể sẽ dễ bị nhiễm trùng và các bệnh tật khác hơn, trong đó có cả đột biến tế bào.
Sau khi uống một cốc cà phê, năng lượng trong người tăng vọt không phải trực tiếp do caffein; mà đúng hơn, là do hệ miễn dịch đang cố gắng loại bỏ caffein. Tuy nhiên, một hệ miễn dịch quá phấn khích và bị ức chế cuối cùng cũng không thể nào cung cấp ồ ạt ađrênalin và cortisol đầy năng lượng, cần thiết để giải phóng cơ thể khỏi chất độc thần kinh mang tính axít là caffein này. Ở giai đoạn này, người ta nói rằng họ đang quen với một chất kích thích, như cà phê. Họ có xu hướng tăng liều lượng nạp vào để cảm nhận được tác dụng có lợi. Câu thường nghe: “Tôi thèm một cốc cà phê chết đi được”, phản ánh đúng hiểm họa của tình huống này.
Vì các tế bào cơ thể liên tục phải trao một phần nước của chúng để loại bỏ caffein độc hại cho thần kinh, nên việc uống cà phê, trà, nước ngọt có ga thường xuyên khiến cho họ bị mất nước. Vì cứ uống mỗi cốc trà hoặc cà phê, cơ thể sẽ phải huy động khoảng 2 đến 3 cốc nước chỉ để rửa sạch caffein, một sự xa xỉ mà nó không thể nào đáp ứng nổi. Điều này cũng áp dụng với nước ngọt có ga, dược phẩm hoặc bất cứ vật chất hoặc hành vi nào dẫn đến giải phóng hoóc môn stress, trong đó có cả xem ti vi hàng giờ liền. Theo quy tắc, tất cả các chất kích thích đều có hiệu ứng rút nước mạnh ở mật, máu và dịch vị tiêu hóa. Đối với việc chữa lành ung thư, các chất kích thích này chỉ có hại chứ không có lợi, và tốt nhất là nên tránh xa chúng.
Để ngăn ngừa mất nước, hãy đảm bảo uống 6-8 cốc nước lọc không lạnh mỗi ngày. Cũng nên tránh uống nước vòi hoặc nước đóng chai. Phần lớn trong lượng nước vòi hoặc nước đóng chai ở Mỹ đều chứa asen, clo, nhôm, florua, dư chất thuốc, phụ phẩm sát trùng nước (DBPs), và bisphenol A, một hóa chất độc hại thường được gọi tắt là BPA.