Lý Thái Bạch
Kim Cổ Kỳ Quan
Cung Oán Ngâm Khúc
Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.
Bích Câu Kỳ Ngộ
Thôi ngày chán lại đêm thâu,
Cạn chung Lý Bạch, nghiêng bầu Lưu Linh.
Về đời vua Đường Miah Hoàng (Dương lịch: 713 - 756), tại Cẩm châu, thuộc tỉnh Tứ xuyên, có một người tài tử, họ Lý tên Bạch, tiểu tự Thái Bạch, biệt hiệu Thanh Liên Cư sĩ, là cháu chín đời vua Lương Vũ Đế. Bà mẹ nằm mộng thấy sao Thái Bạch sa vào lòng rồi sinh ra ông, cho nên mới đặt tên ông như vậy.
Lý Bạch tư dung như vẽ, cốt cách thanh tao. Mới mười tuổi đã tinh thông các sách, miệng đọc thành thơ, cho nên người đời đều coi là một vị thần tiên giáng thế, mà gọi là Lý Trích Tiên.
Trích Tiên tính hay ngâm vịnh, thích ngao du chốn nước biếc non xanh và mong được uống hết các thứ rượu ngon trong thiên hạ.
Một hôm, nghe nói ở Hồ nam có thứ rượu Ô trình rất ngon, ông chẳng quản đường xa dặm thẳm, tìm đến một quán rượu ở đó, uống thật say rồi ngâm thơ. Chợt có quân Tư mã Cao Diệp đi qua, nghe thấy, bèn cho lính vào hỏi. Trích Tiên ứng khẩu đáp bằng một bài thơ.
Thanh Liên Cư sĩ Trích Tiên đây,
Giấu tiếng bao năm chốn tỉnh say;
Tư mã việc chi còn phải hỏi,
Như Lai Kim Túc hiện thân này.
Nguyên tác:
Thanh Liên Cư sĩ Trích Tiên nhân,
Tửu tứ đào danh tam thập xuân;
Hồ châu Tư mã hà tu vấn,
Kim Túc Như Lai thị hậu thân.
音 逢 居 士 誦 仙 人
酒 摔 逃 名 三 十 春
湖 州 司 馬 何 项 問
金 粟 如 禾 是 後 身
Tư mã nghe thơ biết là Trích Tiên ở Tây thục, một người mình vẫn mộ tiếng, thì mừng rỡ vô cùng, liền mời về nhà, giữ luôn mười ngày để uống rượu. Khi tiễn biệt, Tư mã lại hậu tặng và nói rằng:
- Túc hạ là người có tài, rất dễ phát đạt, sao chẳng về Trường an mà ứng thí?
Lý Bạch đáp:
- Đời này, muốn thi đỗ thì phải có tiền có thế, chứ không nhờ ở học ở tài. Muốn tránh nỗi tức giận về những sự bất công, cho nên không ứng thí.
Tư Mã lại nói:
- Tuy vậy, Trường an là nơi đô hội, thiếu chi tài tử văn nhân, thì tài học như Túc hạ tất có người thưởng thức.
Lý Bạch nghe lời, bèn đi ngay Trường an.
Một hôm, Lý Bạch ngẫu gặp quan Học sĩ Hạ Tri Chương, cùng nói chuyện văn chương mà thành tri kỷ. Hạ liền mời Lý về nhá, kết nghĩa anh em, rồi ngày ngày uống rượu ngâm thơ, ngao du sơn thủy.
Ngày qua tháng lại, sắp tới khoa thi. Tri Chương bảo Lý Bạch rằng:
- Khoa này, thì chủ khảo là quan Thái sư Dương Quốc Trung, tức anh Dương Quý Phi, giám thí là quan Thái úy Cao Lực Sĩ, đều là những kẻ tham nhũng, nếu không có tiền như hiền đệ, thì không sao đỗ được. Nhưng tôi quen biết, có thể viết thư cho họ để nói trước về tài học của hiền đệ, thì họ sẽ nễ mà không nỡ đánh hỏng oan.
Lý Bạch, tính vốn không hay cầu cạnh nhưng cũng không nỡ can ngăn bạn.
Dương Quốc Trung với Cao Lực Sĩ tiếp được thư, cười mà nói với nhau rằng:
- Hạ Tri Chương tất đã lấy vàng bạc của Lý Bạch rồi viết giấy nhờ chúng ta. Vậy hễ thấy quyển của họ Lý thì nhất định đánh hỏng.
Ngày 7 mồng 3 tháng 3, là kỳ đệ nhất. Hãy còn sớm, Lý Bạch đã viết xong và đem quyển nộp. Mặc dầu chữ tốt văn hay, Quốc Trung nhận thấy tên Lý Bạch, cầm quyển xem qua rồi trao cho Cao Lực Sĩ mà nói rằng:
- Người học trò này dốt quá, chỉ đáng mài mực cho thí sinh thôi.
Cao Lực Sĩ nói tiếp rằng:
- Có lẽ chưa đáng mài mực, chỉ đáng cởi giầy cho họ thôi.
Dương Quốc Trung bèn phê hỏng vào quyển rồi vất quyển đi, lại sai đuổi ngay Lý Bạch ra ngoài cửa trường.
Lý Bạch cả giận, về nhà thề rằng: “Hễ sau có làm nên, thì quyết bắt Quốc Trung mài mực và Lực sĩ cởi giày cho hả giận”. Hạ Tri Chương thấy vậy khuyên rằng:
- Hiền đệ chớ lo, cứ ở đây chờ đến khoa sau, có quan trường khác, thế nào cũng đỗ.
Từ đấy, hai người ngày ngày chỉ cùng nhau uống rượu ngâm thơ.
Năm sau, có sứ Phiên đến, Triều đình mới phái Hạ Tri Chương ra tiếp tại sứ quán. Khi vào bệ kiến, sứ thần dâng Vua một phong quốc thư. Vua giao thư cho Hạ Tri Chương mở thư tuyên đọc, Tri Chương xem qua rồi tâu rằng:
- Muôn tâu Bệ hạ, thư này viết bằng chữ ngoại quốc, hạ thần chưa học qua, nên không đọc nỗi.
Vua truyền giao cho các quan Hàn lâm khác, nhưng không có ai đọc được. Vua giận mà nói rằng:
- Cả tòa Hàn lâm có hàng trăm người, mà không một ai đọc nỗi bức thư, thì thực mất thể diện với nước ngoài. Nay truyền cho các quan đại thần, trong hạn năm ngày, phải tìm chọ được một người đọc nỗi thư đó.
Các quan đều lo sợ.
Hạ Tri Chương về nhà thuật lại chuyện ấy cho Lý Bạch nghe, thì Lý Bạch cười mà nỏi rằng:
- Nếu khoa vừa rồi ta đỗ, thì làm gì mà chả giúp vua giảng bức thư Phiên.
Hạ Tri Chương vội hỏi:
- Hiền đệ có đọc được chữ Phiên à?
Lý Bạch gật đầu. Hạ Tri Chương vào tâu với vua rằng:
- Muôn tâu Bệ hạ, có một người học trò tỉnh Tứ xuyên tên là Lý Bạch, hiện đang ở chơi nhà hạ thần, tuy chưa thành đạt, nhưng học rộng tài cao, biết nhiều thứ chữ ngoại quốc. Tưởng nhà Vua nên truyền gọi mà hỏi.
Vua mừng lắm, liền sai sứ giả đến gọi Lý Bạch. Lý Bạch thưa rằng:
- Tôi là một kẻ học trò, học thiển tài sơ, không có danh vị, cho nên không dám vào chầu.
Sứ giả về tâu, vua lại hỏi Tri Chương rằng:
- Lý Bạch không chịu vào bệ kiến, là ý thế nào?
Tri Chương tâu rằng:
- Khoa thi vừa rồi, Lý Bạch bị quan trường vất quyển đuổi ra. Nay mặc áo vải vào chầu có điều sợ hãi và xấu hổ. Xin Bệ hạ ban cho đặc ân gì, thì mới dám vào.
Tức thì, Vua phê cho Lý Bạch đỗ Tiến sĩ, và phái Hạ Tri Chương đem cờ, biển, áo, mũ, về nhà ban cho Lý Bạch, rồi đón vào bệ kiến.
Lý Bạch bèn áo mũ chỉnh tề, cưỡi ngựa cùng với Tri Chương vào chầu, làm lễ tạ ơn. Vua Minh Hoàng phán rằng:
- Có bức thư của vua Phiên, không ai hiểu được. Nay gọi nhà người vào, để giảng cho Trẫm.
Lý Bạch xem qua bức thư, rồi đến ngai vàng đọc rành mạch như sau này:
- Khả Độc nước Bột hải kính gửi Hoàng Đế nước Đại Đường.
Từ khi Trung quốc chiếm nước Cao ly, cùng với nước tôi tiếp giáp, thì quân đội quí quốc thường xâm phạm vào bờ cõi nước tôi, tôi bỏ qua đã nhiều lần, đến nay không thể chịu được nữa, mới phải gửi thư này. Hoàng Đế nên nhường lại cho tôi 176 thành của nước Cao ly, để tránh những sự xung đột nơi biên giới. Tôi sẽ chia cho Trung quốc một phần những sản vật sau này:
Nai núi Thái bạch, hải vị miền Nam hải, trống ở Bành thành, hươu sao ở Phù dư, lợn to ở Trịnh hiệt, ngựa tốt ở Xuất tân, tơ lụa ở Thứ châu, mắm cả ở Vị dà, mận đỏ ở cửu đô, lê trắng ở Lạc du. Nếu Hoàng Đế không ưng thuận, tôi sẽ phải khởi binh để cùng với quân Đường một phen thắng phụ.
Vua hỏi các quan đại thần rằng:
- Chúa Bột hải đòi đất Cao ly, ta phải đối phó thế nào?
Các quan đều im lặng Hạ Tri Chương tâu rằng:
- Việc ấy rất khó, xin Bệ hạ cứ hỏi Lý Bạch xem.
Vua bèn hỏi Lý Bạch, thì Lý Bạch tâu rằng:
- Xin Thánh thượng chở ngại. Mai, xin Bệ hạ cho triệu Sứ thần Bột hải vào chầu, hạ thần sẽ thảo tờ chiếu bằng chữ Phiên để làm cho Khả Độc phải khuất phục.
Vua hỏi:
- Khả Độc là thế nào?
Lý Bạch tâu:
- Khả Độc của Bột hải cũng như Khả Hãn của Hồi ngột, như Tán Phổ của Thổ phồn, như Hoàng Đế của ta vậy.
Vua thấy Lý Bạch ứng đối trôi chẩy rất mừng, phong cho làm Hàn lâm học sĩ và ban yến tại điện Kim loan. Vua vốn biết Lý Bạch thích rượu, nên truyền cho uống thật say rồi cho nghỉ ngay ở điện bên.
Sáng sớm hôm sau, Lý Bạch còn say, vua sai nội thị lấy bát yến nóng, rồi tự tay cầm ban cho Lý Bạch. Lý Bạch quỳ mà ăn, một lúc sau mới tỉnh.
Khi Phiên sứ vào chầu, Lý Bạch tay cầm phiên thư đứng bên ngai vàng mà đọc, không sai một chữ, rồi bảo Phiên sứ rằng:
- Trong bức thư này, Khả Độc có vẻ vô lễ, nhưng Hoàng Đế đại lượng, tha thứ cho và sẽ có chiếu đáp lại, ngươi phải đợi trước sân rồng.
Lúc ấy, bên long sàng, đã kê sẵn giường thất bảo, giải đệm gấm, có bầy nghiên ngọc, bút ngà, mực long yên, giấy kim hoa cho Lý Bạch ngồi thảo chiếu.
Lý Bạch tâu rằng:
- Giày của kẻ hạ thần dơ bẩm xin Bệ hạ ra ân cho cởi, để hạ thần đi chân lên điện.
Vua ưng cho, và sai nội thị cởi hộ. Lý Bạch lại tâu:
- Kẻ hạ thần muốn xin tâu thêm một điều, nhưng sợ vô lễ, Bệ hạ có rộng lượng tha thứ cho, kẻ hạ thần mới dám tâu.
Vua nói:
- Cho phép nhà ngươi cứ tâu; dù có lầm lỗi, trẫm cũng rộng dung cho.
Lý Bạch tâu:
- Khoa thi vừa rồi, kẻ hạ thần có bị quan chủ khảo Dương Quốc Trung vất quyển đi, quan giám thi Cao Lực Sĩ đuổi ra ngoài. Nay thấy hai người ấy, kẻ hạ thần nhở đến cái nhục trước, viết khó thành văn. Vậy dám xin Bệ hạ gia ân, truyền cho Dương Quốc Trung mài mực, Cao Lực Sĩ cởi giầy cho hạ thần, thì hạ thần thảo chiếu mới hay được.
Vua Minh Hoàng muốn cho được việc đành bắt Dương Quốc Trung mài mực, và Cao Lực Sĩ cởi giày cho Lý Bạch.
Bấy giờ Lý Bạch đắc chí, ngồi lên đệm gấm, thảo tờ chiếu, chỉ trong chớp mắt đà xong và đem trình ngự lãm. Vua thấy chiếu viết toàn bằng chữ Phiên như trong bức thư nhận được, trao cho các quan đại thần xem, rồi bắt sử giả quỳ trước ngai vàng để nghe Lý Bạch tuyên đọc.
Chiếu rằng:
“Đức Hoàng Bế hiệu Khai nguyên nhà Đại đường chiếu cho Khả Độc của Bột hải như sau này:
Thường nghe trứng không trọi được với đá, rắn không thể địch được với rồng. Như Thiên triều đây, theo mạnh trời mà trị thiên hạ, 9 châu đã định, 4 bể đã yên, đất rộng người nhiều, quân mạnh tướng giỏi: Chúa Hiệt Lỵ bội ước mà phải bắt, Tán Phổ kèn cựa sau cũng phải hàng, nước Tân la dâng bức chướng thêu, nước Thiên Trúc dâng con chim biết nói; nước Phật thuật tiến chó biết dắt ngựa, nước Ba tư biếu rắn bắt chuột; nước Kha lăng dâng vẹt trắng, nước Lâm ấp dâng ngọc dạ quang, nước Cốt lỵ cán dâng ngựa quý, toàn là tỏ cái lòng sợ uy phục đức, mà tránh được tai vạ, hưởng được yên vui. Đến như nước Cao ly chống lại, thì cơ nghiệp bị tan tành. Đó há chẳng phải là tấm gương soi sáng cho kẻ u mê ru? Nước ngươi vốn là một nước nhỏ, so với Trung quốc chưa bằng một quận, binh lực tài sản đều kém xa, nếu không biết phận mình, lại kiêu căng vô lễ, thì tránh sao khỏi cái vạ máu chảy thành sông, mà chịu chung số phận của Hiệt lỵ và Cao ly.
Nay Hoàng Đế rộng lượng để cho Khả Độc suy nghĩ mà tự sửa lỗi mình mới hòng tránh khỏi cái vạ mất nước và bị thiên hạ chê cười.
Nay Dụ”
Vua nghe đọc rất mừng, sai nội thị phong tờ chiếu lại rồi giao cho Phiên sứ.
Khi ra khỏi Ngọ môn, sứ thần mới hỏi Hạ Tri Chương rằng:
- Người thảo tờ chiểu là thế nào, mà quan Thái sư cũng phải mài mực, quan Thái úy phải cỡi giầy như vậy?
Hạ Tri Chương đáp:
- Đó là một vị Thần tiên xuống trần để giúp Đường triều nên Đại thần phải hầu hạ.
Phiên sứ về nước đưa trình tờ chiếu và thuật lại những chuyện đã qua; Khả Độc lấy làm kinh sợ mà chịu thần phục như trước.
Từ đấy, vua càng nễ vì Lý Bạch, muốn trao cho chức trọng quyền cao, vàng bạc, gấm vóc; Lý Bạch đều từ mà tâu rằng;
- Nếu Bệ hạ rộng thương thì xin cho kẻ hạ thần được ngày ngày cùng quan Hàn lâm Hạ Tri Chương uống rượu ngâm thơ, ngao du sơn thủy.
Vua Minh Hoàng biết Lý Bạch là người thanh cao, nên không cưỡng ép, thường thường ban yến và cho ngủ ngay ở trong điện.
Một hôm, Lý Bạch cưỡi ngựa đi chơi, gặp một toán lính, áp giải ra pháp trường một người tù ngồi trong xe, trạng mạo khác thường. Hỏi ra mới biết là một võ quan ở biên giới tên là Quách Tử Nghi. Lý Bạch nhận thấy Tử Nghi có tài thao lược, mà tin rằng về sau lập được công to, bèn xin quan giảm hình hãy tạm chờ, để phi ngựa về cung xin ân xá. Một lát sau Lý Bạch đã trở lại pháp trường tuyên đọc chỉ dụ của vua tha tội chết cho Quách Tử Nghi, cho về giữ chức cũ để lập công chuộc tội. Quách Tử Nghi ở trong xe tù bước ra, sụp lạy Lý Bạch để tạ ơn cứu mạng, rồi biệt về nhận chức cũ.
Mẫu đơn giang nam, cũng gọi mộc thược dược, là một thứ hoa quý, sắc đẹp, hương thơm, có tiếng là chúa các thứ hoa. Trong cung nhà Đường, có trồng được bốn màu, là đại hồng, thâm hồng, thiển hồng và thông bạch. Một hôm, cả bốn thứ đều nở hoa, vua rất vui vẻ, cùng với Dương Quý Phi ra đình Trầm hương thưởng ngoạn, có phường nhạc Lê viên của nhà vua tấu nhạc. Vua lại sai Lý Quy Niên, là quan trưởng phường nhạc, đi tìm Lý Bạch để đặt bài hát mới.
Quy Niên vừa đến một quán rượu đã thấy Lý Bạch quá say mà đương nghêu ngao hát mấy câu sau này:
Ba chén suốt đạo lớn,
Một đấu ngủ tự nhiên;
Chỉ lấy rượu làm thú,
Người tỉnh mấy ai truyền.
Nguyên tác:
Tam bôi thông đại đạo,
Nhất đẩu hợp tự nhiên;
Đãn đắc tửu trung thú,
Vật vị tỉnh giả truyền.
三 杯 逯 大 道
― 斗 合 自 然
但 将 酒 妒 趣
勿 爲 醒 者 傳
Quy Niên bèn nói với Lý Bạch rằng:
- Hoàng Thượng ngự ở đình Trầm hương đang đợi Học sĩ. Chính tôi phụng chỉ đi tìm Học sĩ đây.
Lý Bạch trừng mắt, đọc một câu thơ của Đào Uyên Minh như sau này:
Tôi say muốn ngủ, ông về trước.
Ngã dục túy miên, quân thả khứ,
Lý Bạch đọc xong lại ngủ. Quy Niên không sao được, phải gọi mấy người lính khiêng Lý Bạch đặt lên mình ngựa và đỡ Lý để đưa đến trước lầu Ngũ phượng. Vua Minh Hoàng biết vậy, sai nội thị ra truyền cho phép Lý Bạch được cưỡi ngựa vào Trầm hương đình, rồi nằm nghỉ trên một chiếc chiếu hoa ở góc đình cho tỉnh rượu. Lý Bạch lại ngủ, bọt sùi ra mép. Vua thân cầm khăn tay chùi cho Lý.
Quý Phi nhân tâu rằng:
- Thần thiếp nghe nói: những người say rượu, hễ vẩy nước lạnh vào mặt thì tỉnh rượu ngay.
Vua sai cung nữ vẩy nước lạnh vào mặt Lý Bạch. Lý bèn tỉnh rượu, thấy vua đứng trước mặt, sợ hãi, liền quỳ xuống tâu rằng:
- Kẻ hạ thần tội đáng chết, xin Bệ hạ rộng tha cho.
Vua đáp:
- Trẫm cùng Phi Tử thưởng hoa ở đây, muốn vời Khanh vào để làm mấy bài hát mới, phổ vào khúc nhạc.
Lý Bạch vâng mệnh, nhân sẵn bút mực, thảo ngay 3 bài Thanh bình điệu sau này:
Bài I
Xiêm áo như mây, mặt tựa hoa,
Hương nồng bên triện gió xuân qua;
Ví không gặp gỡ đầu non ngọc,
Âu cũng đài Dao dưới bóng nga.
Nguyên tác:
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung,
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng;
Nhược phi quần ngọc sơn đầu hiện,
Hội hướng Dao đài nguyệt hạ phùng.
當 想 衣 裳 冰 想 容
春 風 择 裡 露 等 濃
若 非 屢 玉 山 頭 見
會 向 瑤 臺 月 下 逢
Bài II
Một cành tươi tốt đượm màu hương,
Giấc mộng mây mưa uổng vấn vương;
Ướm hỏi Hán cung ai sánh kịp,
Phấn son Phi Yến cũng xin nhường.
Nguyên tác:
Nhất chi nùng diệm lộ ngưng hương,
Vân vũ Vu sơn uổng đoạn trường;
Tá vấn Hán cung thùy đắc tự,
Khả lân Phi Yến ỷ tân trang.
一 技 濃 絶 落 救 香
當 雨 瓜 山 牡 斷 腸
借 問 漢 宮 誰 得 桩
可 憐 飛 燕 倚 斯 桩
Bài III
Danh hoa khuynh quốc vẻ đua tươi,
Nên được Quân Vương ngắm lại cười;
Rũ sạch gió đông bao nỗi giận,
Đình Trầm đang lúc tựa lan chơi.
Nguyên tác:
Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,
Dương đắc Quân Vương đới tiễu khan;
Giải thích xuân phong vô hạn hận,
Trầm hương đình bắc ỷ lan can.
名 花 頌 国 兩 相 歡
當 得 君 王 帝 笑 看
解 釋 春 風 無 恨 恨
兄 香 亭 托 倚 擱 扦
Vua xem thơ, khen là hay lắm, rồi trao cho Quy Niên lựa nhịp mà hát. Quý Phi cũng vừa ý, đứng dậy lạy vua để tạ ơn. Vua nói:
- Không phải tạ Trẫm đâu, nên tạ quan Học sĩ.
Quý Phi bèn lấy rượu bồ đào, rót vào chén ngọc, sai cung nữ ban cho Lý Bạch.
Từ đấy, trong cung có yến tiệc nào, Lý Bạch cũng được vời. Quý Phi cũng kính trọng lắm.
Một hôm, Quý Phi đứng xem hoa ở đình Trầm hương ngâm ba bài Thanh bình điệu của Lý Bạch mà khen ngợi. Cao Lực Sĩ nghe thấy, muốn trả thù Lý Bạch, tâu với Quí Phi rằng:
- Chúng tôi xem ý Nương nương lấy làm thích mấy bài thơ ấy, chứ không oán giận Lý Bạch,
Quý Phi hỏi:
- Có gì mà oán giận?
Đáng giận vì câu “Phấn son Phi Yến cũng xin nhường”. Xưa Phi Yến là Hoàng hậu của vua Hán Thành Đế, có tư thông với Yên Xích Phượng, vua Thành Đế bắt gặp Xích Phượng ở trong cung, bèn giết đi. Vậy đem Nương nương mà ví với Phi Yến, thì tức là chê bai chứ không phải là ca tụng. Xin Nương nương nghĩ kỹ.
Nguyên Quý Phi bấy giờ đương tư thông với An Lộc Sơn, nghe nói thế chột ý, mà sinh ra giận Lý Bạch. Từ đấy, nàng thường nói với vua rằng Lý Bạch vô lễ, cho nên vua cũng không vời Lý Bạch nữa.
Lý Bạch thấy vậy, biết rằng bị Lực Sĩ dèm pha, bèn xin cáo về, nhưng vua không cho. Ông lại càng hay say sưa với 7 ông bạn rượu là: Hạ Tri Chương, Lý Thích Chi, Nhữ Dương Liễn, Thôi Tôn Chi, Tô Tấn, Trương Húc, Tiêu Thoại. Người ta thường gọi là 8 ông tiên rượu.
Một hôm, vua Minh Hoàng bảo Lý Bạch rằng:
- Khanh có trí u nhã, Trẫm cũng chiều ý mà cho cáo về. Nếu cần thứ gì, Trẫm sẽ ban cho.
Lý Bạch tâu rằng:
- Muôn tâu Bệ Hạ, kẻ hạ thần chỉ xin được lúc nào cũng đủ tiền nống rượu.
Vua bèn ban cho một cái thẻ bài bằng vàng, có mấy chữ sau này: “Lý Bạch đến đâu, cần tiền rượu thì được phép vào kho đấy mà lĩnh”. Vua còn ban thêm 1 nghìn lạng vàng, 1 áo gấm, 1 đai ngọc, 1 con ngựa bạch, 1 yên nạm vàng và 20 người lính hầu, lại thân cầm 3 đóa hoa bằng vàng giắt vào mũ Lý Bạch và thân gót 3 chén rượu tiễn chân. Lý Bạch dập đầu lạy tạ, từ biệt ra đi. Các quan trong triều đều đi tiễn, chỉ có Dương Quốc Trung và Cao Lực Sĩ là vắng mặt; các ông bạn rượu đưa chân đến một trăm dặm và uống rượu với Lý Bạch suốt ba ngày rồi mới trở về.
Lý Bạch mặc áo gấm hồng, đội mũ sa đen, cưỡi con ngựa trắng của Vua ban, cùng với 20 người lính trở lại quê nhà ở Tứ Xuyên. Tiền uống rượu trong lúc đi đường, đều lấy ở những kho địa phương để trả.
Về tới Cẩm châu, thì phu nhân là Hứa thị cùng với các quan sở tại ra đón rước.
Vui cảnh gia đình được độ nửa năm Lý Bạch lại từ biệt phu nhân để ngao du sơn thủy. Ông ăn mặc như một người học trò, dấu kim bài của Vua ban, cưỡi một con lừa, có một tiễu đồng theo sau. Một hôm, đi đến huyện Hoa âm, nghe nói quan huyện là một người tham nhũng, muốn gặp xem sao; ông bèn cưỡi lừa đến thẳng công đường, qua qua lại lại mấy lượt. Quan huyện trông thấy cho lính bắt vào hỏi, thì Lý Bạch chẳng nói gì, cho nên quan huyện sai giam, rồi ủy người lấy cung. Lý Bạch khai rằng:
- Tôi là Lý Bạch quê ở Cẩm châu, văn chương nhất đời quỷ thần kinh sợ. Hội Bát tiên chốn Trường an, dịch Phiên thư nơi đế điện. Xe Ngọc liễu có khi đón rước, điện Kim loan thường vẫn ngủ đêm. Đã từng được vua quấy yến cho ăn, được vua lấy khăn lau miệng, Cao Thái Úy chụt giầy, Dương Thái Sư mài mực. Vào cung đã được cưỡi ngựa, qua huyện sao phải xuống lừa. Muốn biết lai lịch ta đây, xem thử kim bài sẽ rõ.
Người lấy cung, mới đọc qua, sợ hãi quỳ lạy xin tha lỗi, Lý Bạch nói rằng:
- Không việc gì đến ngươi. Cứ về hỏi quan huyện rằng: Ta phụng kim bài đi chơi, có phạm tội gì mà bắt?
Người lấy cung vào bẩm, quan huyện cả sợ vội vàng đến sụp lạy mà xin tha lỗi.
Lý Bạch mắng rằng:
- Ngươi làm quan, đã có tước lộc của Thánh Thượng, sao lại còn tham nhũng?
Rồi đưa kim bài ra nói tiếp:
- Cứ theo bài này, thì các ngươi đều phải tội cả.
Mọi người đều van lạy xin tha Lý Bạch hỏi rằng:
- Thôi, lần này tha cho. Nếu không biết sửa mình, sau sẽ trị tội.
Mọi người đều tạ ơn và xin vâng mệnh.
Tin ấy đồn khắp mọi nơi, ai cũng cho rằng Lý Bạch được mật phái đi thanh tra, cho nên quan nha đều bỏ cả thói tham nhũng.
Mấy năm sau, An Lộc Sơn nổi loạn, Vua Minh Hoàng phải chạy vào Thục. Ba quân hộ vệ, trong khi đi đường, bắt giết Dương Quốc Trung và ép Dương Quý Phi phải thắt cổ chết trong một ngôi chùa.
Bấy giờ một vị hoàng thân là Vĩnh Vương Lân đem quân đánh lấy Tràng an, lên ngôi Hoàng đế, nghe nói Lý Bạch trốn ở núi Lư sơn, triệu Lý Bạch về ép phải giúp sức. Sau con trưởng vua Minh Hoàng là Túc Tôn nối ngôi cha, sai Quách Tử Nghi đi đánh Vĩnh Vương Lân, Vĩnh Vương thua rồi tự tử, còn Lý Bạch chạy trốn đến bến Tầm dương thì bị bắt và đem nộp Quách Tử Nghi, Tử Nghi trông thấy vội vàng cỡi trói, mời ngồi, rồi sụp lạy mà nói rằng:
- Xưa nhờ ân nhân cứu mạng cho cho nên mới có ngày nay. Tôi xin hết sức để báo đền ơn trước.
Nói xong, làm tiệc khoản đãi rồi thảo tờ sớ xin vua Túc Tôn tha tội cho Lý Bạch.
Khi ấy, hai Kinh đã khôi phục, Vua Túc Tôn mới rước vua Minh Hoàng ở Thục về, và tôn là Thái Thượng Hoàng, vừa tiếp được sớ của Quách Tử Nghi. Vua Minh Hoàng bảo vua Túc Tôn rằng.
- Lý Thải Bạch là bậc thiên tài, nếu không dùng thì thật là phí lắm.
Túc Tôn bèn cho Lý Bạch làm Tả thập di nhưng Lý Bạch cố từ.
Sau đó ít lâu, Lý Bạch từ biệt Quách Tử Nghi, ngày ngày đủng đỉnh con thuyền, uống rượu ngâm thơ ở những nơi thắng cảnh. Một đêm, thuyền đậu ở bến Thải thạch, thuộc Kim lăng, trăng sáng vằng vặc, Lý Bạch ngồi trên mũi thuyền, uống rượu thật say, trông thấy bóng mặt trăng ở dưới sòng, nhẩy xuổng để ôm lấy mà chết. Tục truyền rằng: Lúc ấy trên trời có tiếng đàn địch vang dậy, dưới sông có cá kình nổi lên, Lý Bạch cưỡi cá mà ra bể.
Người đời hâm mộ, lập đền ở bến Thái thạch mà thờ, gọi là đền Lý Trích Tiên.