Điển Tích

Điển tích văn học và lời hay ý đẹp

Moderators: littlehoney999, A Mít

Re: Điển Tích

Postby bevanng » 03 Feb 2023

Lý-Ích Và Tiểu-Ngọc (Tình-Sử)

- Trách người sao nỡ vầy-vò,
Để cho Tiểu-Ngọc giận no đến già.

(THỊ-KÍNH)


Niên-hiệu Đại-lịch đời Đường, ở Lũng-tây, có người học-trò tên là Lý-Ích, mới 20 tuổi đã đỗ Tiến-sĩ, còn chờ năm sau thi khoa Bạt-tụy. Mùa hạ năm ấy, Lý-sinh đến Trường-an, trọ ở xóm Tân-xương.
Lý-sinh vốn là con nhà phong-lưu, thuở nhỏ đã có tài, những áng thơ văn từ phú, ít người sánh kịp, các bậc lão-thành cũng đều chịu là hay. Chàng trong lòng tự nghĩ mình là tài-tử, tất phải sánh đôi với giai-nhân, nên để ý tìm-tòi, nhưng chưa được nơi nào vừa ý.
Lúc bấy giờ ở Trường-an có một mụ mối giỏi, tên gọi là Bào-thập-nhất nương, vốn là thị-tỳ nhà Tiết-Phụ-Mã, tự chuộc mình ra đã hơn 10 năm. Mụ rất khôn-ngoan linh-lợi, cho nên những nhà quyền-quý, không nơi nào là mụ không vào lọt. Lý-sinh hậu-đãi mụ, và ngỏ ý nhờ mụ làm mối cho một nơi xứng-đáng.
Vài tháng sau, một hôm Lý-sinh đương ở nhà trọ, chợt nghe tiếng gọi cửa. Chàng vội ra xem, thì là Bào-thập-nhất-nương. Chàng mừng-rỡ mà hỏi: “Hôm nay mụ Bào đến đây, tất có tin mừng”.
Bào-thập-nhất-nương nói: “Quả có tin may-mắn, nên tôi đến báo để chàng biết. Hiện có người nhan-sắc tuyệt trần, mà tính-tình cao-thượng, không ham phú-quý, chỉ mộ người thanh-nhã phong-lưu. Liệu như thế, Thập-lang có vừa ý hay không?”
Lý-sinh nghe nói mừng lắm, vội chắp tay mà tạ rằng: "Nếu được như thế, thật là vạn-hạnh”.
Chàng lại hỏi tên-tuổi và gia-thế người con gái. Mụ Bào nói rằng: “Nàng ấy là con gái nhỏ của Hoắc-Vương, tên gọi Tiểu-Ngọc. Khi Hoắc-Vương còn sống, nàng được Vương yêu-quý nhất nhà. Mẹ nàng là một người thiếp yêu của Hoắc-Vương, tên là Tĩnh-Chì. Lúc Hoắc-Vương mất, anh em nàng thấy nàng là con tỳ-thiếp nên không nhận, chia cho ít của để cùng với mẹ ra ở bên ngoài, và đổi theo họ mẹ là Trịnh-thị, cho nên ít người biết nàng là con gái Hoắc-Vương. Tiểu-Ngọc vẻ đẹp tuyệt-vời, lại thêm tư-chất thông-minh, cốt-cách thanh-cao, tính-tình hòa nhã, thi-ca âm-nhạc, thứ gì đều cũng hơn người. Cách đây mấy ngày, mẹ nàng có ngỏ ý kén rể, muốn được người xứng đáng với tài-sắc của nàng. Tôi liền nói đến Thập-lang, thì Tiểu-Ngọc bảo cũng có biết tiếng, và lấy làm hâm-mộ lắm. Nhà nàng ở đường Cổ tự phường Thắng-nghiệp. Tôi có hẹn trưa mai sẽ đưa chàng đến để xem mặt. Chắc rằng chàng sẽ được mọi người ưng thuận”.
Mụ Bào từ về. Lý-sinh vội-vàng sửa-soạn để hôm sau đi xem mặt. Chàng sai đầy-tớ là Thu-Hồng đi mượn ngựa tốt với bộ yên vàng của người thân-thích, là một vị Tướng-quân ở Kinh-triệu. Chàng lại tắm-gội sửa-sang, lòng mừng khôn xiết, suốt đêm thao-thức, không sao ngủ được. Sáng hôm sau, mũ-áo chỉnh-tề, soi gương mấy lần mà vẫn lo rằng không đẹp.
Đến trưa, chàng lên ngựa đi thẳng tới phường Thắng-nghiệp. Đến nơi, đã thấy kẻ hầu đứng chực ngoài cổng hỏi rằng: “Chàng có phải là Lý-thập-lang không?”
Lý gật đầu rồi xuống ngựa. Người hầu dẫn vào đến cửa, thì thấy mụ Bào ở trong chạy ra, cười mà nói rằng: “Chàng là ai, mà dám đường-đột vào đây thế?”
Lý-sinh chưa kịp trả lời, thì mụ đã đon-đả mời chàng vào nhà. Chàng thấy trước sân có trồng bốn cây anh-đào, ở phía tây-bắc lại có lồng chim anh-vũ. Anh-vũ thấy người vào, thì nói rằng: “Buông mành xuống”.
Lý-sinh còn đang ngắm-nhìn cảnh-vật, chợt nghe tiếng nói, giật mình dừng bước, thì đã thấy mụ Bào dẫn Tĩnh-Chì ra đón chàng vào nhà trong mời ngồi.
Tĩnh-Chì tuổi độ tứ-tuần, vẻ người tươi-đẹp, ăn-nói nhẹ-nhàng. Bà bảo Lý-sinh rằng: “Thập-lang thường có tiếng là người phong-nhã, nay được gặp mặt, mới biết thiên-hạ không lầm. Tôi chỉ có một mụn gái, không đến nỗi xấu, những mong gả cho người quân-tử, để em nó lấy chỗ nương-nhờ. May sao, Bào-thập-nhất-nương đến làm mối cho Thập-lang. Nếu quả Thập-lang vừa ý, tôi rất vui lòng để em nó nâng khăn sửa túi”.
Lý-sinh nghe nói tạ rằng: “Kẻ bất-tài này lại được bà thương đến, thật lấy làm vẻ-vang”.
Tĩnh-Chì truyền bầy tiệc rượu khoản-đãi, rồi cho gọi Tiểu-Ngọc. Tiểu-Ngọc từ thềm bên đông đi tới, Lý-sinh trông thấy, đứng dậy vái-chào. Chàng thấy Tiểu-Ngọc mặt đẹp như hoa, mày xanh lá liễu, hai mắt lóng lánh như nước mùa thu, thì mừng lắm. Tiểu-Ngọc rón-rén đến ngồi cạnh mẹ. Tĩnh-Chì nói rằng: “Con thường đọc câu:

“Mở rèm nhác thấy xa-xa,
Gió lay cành trúc ngỡ là cố-nhân”.


Nguyên tác:

Khai liêm phong động trúc,
Nghi thị cố-nhân lai.


開 簾 風 動 竹
疑 是 故 人 來


Thập-lang đây chính là người đã làm ra những câu ấy. Con thường ngâm thơ thưởng-thức, sao bằng nay được thấy mặt chàng."
Tiểu-Ngọc cúi đầu mỉm cười mà nói: “Chẳng cứ gì phải biết người, chỉ biết danh cũng đủ, vì đã có tài, là thường có mạo”.
Lý-sinh đứng dậy nói rằng: “Nương-tử yêu tài, tiểu-sinh trọng sắc, nay hai bên đều được như-nguyện cả”.
Tiểu-Ngọc và Tĩnh-Chì đều mỉm cười. Rượu đã ngà ngà, Lý-sinh nói xin Tiểu-Ngọc hát cho nghe một bài. Tiểu-Ngọc ngồi im. Tĩnh-Chì phải cố ép, Tiểu-Ngọc mới chịu cất tiếng: điệu ca trầm-bổng, giọng hát du-dương. Tiệc tan, thì trời đã tối. Mụ Bào bèn đưa Lý-sinh đến yên nghỉ ở viện phía tây. Viện ấy trang-hoàng rất là lộng-lẫy, màn là nệm gấm, cửa vẽ rèm châu. Một lúc sau, Tiểu-Ngọc bước vào, tiếng nói nhẹ-nhàng, vẻ người tha-thướt. Khi nàng bỏ áo cởi xiêm, Lý-sinh thấy uyển-chuyển như Hằng-nga Tiên-tử, khi loan-phòng chung gối, chàng tưởng như còn hơn giấc mộng non Vu.
Trời gần sáng, Tiểu-Ngọc bỗng sa lệ mà nói rằng: “Thiếp mang tiếng là con nhà ca-xướng, dám đâu dự vào bậc bố-kinh. Nay nhờ nhan-sắc mà được gửi thân vào chàng, nhưng mai sau sắc kém đi, thì niềm ân-ái tất cũng dần dần phai-nhạt, thiếp một mình thân gái, khác gì mảnh quạt mùa thu, ai còn đoái tưởng. Nghĩ thế, nên đương vui bỗng hóa ra buồn”.
Lý-sinh nghe nói động lòng thương mà đáp rằng: “Cái lòng mơ-ước của tôi nay đã được thỏa-mãn, thì dù thịt nát xương tan, cũng không dám-phụ bạc. Sao nàng lại nghĩ thế?”
Chàng lại bảo lấy lụa trắng để viết lời thề. Tiểu-Ngọc gạt lệ, sai thị tỳ là Anh-Đào mang lụa và bút nghiên đến. Tiểu-Ngọc ngày thường vẫn làm bạn với văn-thơ, cho nên những đồ dùng trong văn phòng đều là những thứ quý của Vương-gia cả. Lý-sinh vốn là người có tài, hạ bút thành văn, nhắc tới non-sông trời-đất để thề, lời-lẽ thống-thiết. Từ đấy, hai người rất tương-đắc, chẳng khác gì đôi chim phỉ thúy cùng nhau ríu-rít ở chốn từng mây.
Hai năm sau, về mùa thu, Lý-sinh đỗ khoa Bạt-tụy, được bổ Chủ-bạ ở Trịnh-huyện. Tháng tư năm sau nữa, chàng mới đi nhậm-chức. Trước khi lên đường, chàng đặt tiệc ăn mừng ở Đông-lạc, những bà-con thân thích đều đến dự. Tiệc xong, chàng trở về phòng. Tiểu Ngọc bảo chàng rằng: “Tài danh như chàng, ai chả hâm-mộ, mà mong gá nghĩa trăm-năm. Vả chàng trên có mẹ già, lại không có người coi-sóc, chàng đi chuyến này, chắc phải định mối lương-duyên, lời thề trước khi, chẳng qua cũng là hư-ngữ. Thiếp có một lời muốn bầy-tỏ cùng chàng, không biết chàng có sẵn lòng nghe cho không?”
Lý-sinh lấy làm lạ, mà bảo rằng: “Nàng muốn điều gì, xin cứ nói, tôi sẽ nghe theo”.
Tiểu-Ngọc nói: “Thiếp nay mới 18 tuổi, chàng 24 tuổi, từ nay đến lúc phải thành gia-thất, còn được 6 năm; vậy xin cho thiếp ở cùng chàng đến lúc ấy, rồi chàng sẽ tìm nơi xứng-đáng cũng không muộn. Bấy giờ thiếp sẽ bỏ hết việc đời, cắt tóc đi tu. Cái ý-nguyện của thiếp là thế đấy”.
Lý-sinh trong lòng cảm-động, bỗng rơi lệ mà bảo Tiểu-Ngọc rằng: “Lời thề ngày trước, dù sống thác vẫn ghi lòng; vả tôi với nàng dù có ăn-ở với nhau trọn kiếp, cũng chưa hẳn là thỏa-mãn, có đâu lại dám hai lòng. Nàng cứ yên tâm, đợi đến tháng tám, tôi đến Hoa-châu sẽ cho người về đón; những ngày hội-họp cũng chẳng xa đâu”.
Cách vài hôm, Lý-sinh từ-biệt lên đường, Lý đến nơi nhậm-sở một tuần, rồi xin phép về thăm mẹ. Đến nhà, thì bà mẹ cho biết rằng đã hỏi cho chàng một người cháu gái bà, là họ Lư. Bà mẹ tính vốn nghiêm-nghị, Lý-sinh không dám chối-từ. Nhà họ Lư là nhà gia-thế, nên gả chồng cho con thách cưới rất nhiều, nếu không đủ lễ không được. Nhà Lý-sinh lại vốn thanh-bạch, phải đi vay những người thân ở xa, cho nên chàng phải vất-vả, từ mùa thu năm trước, mãi đến mùa hạ năm sau, mới thu-xếp xong, thành ra sai hẹn cùng Tiểu-Ngọc. Chàng không biết làm thế nào, nên đành lòng phụ ước. Chàng lại giấu không cho ai biết mình ở đâu, để Tiểu-Ngọc tuyệt đường dò-la.
Đến kỳ hẹn, Tiểu-Ngọc không thấy tin-tức Lý-sinh, bèn cho người đi tìm-hỏi khắp nơi, nhưng mỗi người nói một khác. Nàng đứng đợi ngồi mong, có khi lại tìm thày bói-toán. Một năm vong-vóng chốn phòng không, nên buồn-rầu uất-ức thành bệnh. Phần vì lộ-phí tìm-tòi, phần vì thuốc-thang điều-trị, tốn kém rất nhiều, cho nên ngày càng túng-thiếu, thường phải sai thị-tỳ đem giấu đồ-đạc đến nhà Hầu-Cảnh-Quang bán lấy tiền tiêu.
Một hôm, Tiểu-Ngọc sai thị-tỳ đem vòng ngọc tía đến bán cho Cảnh-Quang. Một ông lão thợ ngọc thấy vòng ấy, cầm lấy xem kỹ rồi nói rằng: “Cái vòng này, trước kia chính tay tôi làm cho con gái Hoắc-Vương khi cô ấy mới cài trâm, Hoắc-Vương trả công đến muôn đồng tiền. Nàng là thế nào mà lại có chiếc vòng này?”
Người thị-tỳ đáp: “Tiểu-thư tôi chính là con Hoắc-Vương; bây giờ nhà-cửa sa-sút, lại bị người phụ-bạc, bỏ đi Đông-đô không về, Tiểu-thư tôi phiền-não nên ốm đã hai năm nay, vừa sai tôi đem bán vòng này để lấy tiền, thuê người đi dò-hỏi tin-tức”.
Người thợ ngọc ngậm-ngùi mà than rằng: “Không ngờ con nhà quý-tộc mà sa-cơ đến thế. Già này trông thấy cái cảnh thịnh-suy mà đau lòng”.
Bèn đưa người thị-tỳ đến thăm Duyên-Tiên Công-chúa, thuật lại truyện nàng Tiểu-Ngọc. Công-chúa rất lấy làm ái-ngại, cho nên bỏ ra 12 vạn tiền để mua vòng ngọc ấy. Bấy giờ Lý-sinh đã nộp đủ sính-lễ cho họ Lư, rồi trở về Trịnh-huyện. Đến tháng chạp, chàng lại xin nghỉ về Trường-an, nhưng rất kín tiếng trọ ở một nơi, không cho ai biết.
Lý-sinh vốn có một người em họ, tên là Thôi Doãn-Minh; khi chàng ở nhà Tiểu-Ngọc, Doãn-Minh thường đến chơi, nhân thế mà có dịp quen Tiểu-Ngọc, và được nàng đối-đãi ân-cần, cho nên vẫn cảm cái ơn ấy. Từ khi Lý-sinh bặt tiếng, Doãn-Minh nghe được tin gì, là đến mách Tiểu-Ngọc. Lần này Lý-sinh trở về Tràng-an, Doãn-Minh cũng vội đến mách.
Tiểu-Ngọc biết vậy, giận lắm than rằng: “Không ngờ Lý-sinh nỡ phụ lòng đến thế”.
Nàng mượn những người thân với Lý đến mời, nhưng Lý đã trót sai lời ước, lại nghe nói Tiểu-Ngọc ốm nặng, nên chàng không muốn đến. Sớm đi tối về, chàng đều tránh lối qua nhà Tiểu-Ngọc.
Tiểu-Ngọc ngày-đêm khóc-lóc, bỏ ngủ quên ăn, chỉ mong được gặp mặt Lý-sinh, nhưng chàng cố trốn-tránh, không sao gặp được. Nàng càng oán-hận, bệnh lại càng tăng, đến nỗi nằm liệt giường không dậy được. Trong thành Trường-an có nhiều người biết chuyện, những thương Tiểu-Ngọc đa-tình, lại trách Lý-Sinh bạc-hạnh.
Nhân tiết tháng ba, giai-nhân tài-tử rập-rìu du xuân, Lý-sinh cũng rủ năm sáu người bạn, đến chùa Sùng-kinh xem hoa mẫu-đơn và xướng-họa. Trong số ấy, có Trương-Hạ-Khanh, là bạn thân của Lý, bảo Lý rằng: “Tiết xuân đầm-ấm, cây-cỏ tốt-tươi, mà đáng thương thay! Tiểu-Ngọc một mình vong-vóng, đến nỗi thành bệnh, không dậy được. Sao anh nhẫn-tâm bỏ nàng? Tôi thiết-tưởng làm kẻ trượng-phu, đâu nỡ như thế?”
Hạ-Khanh đương nói, thì có một người trông ra dáng hiệp sĩ, mình mặc áo vàng, vẻ người quắc-thước, nấp ở sau cột nghe trộm, rồi bước ra chào mọi người, và nói với Lý rằng: “Ngài có phải là Lý-thập-lang không? Tôi quê ở Sơn-đông, đến đây thăm người bà-con bên ngoại. Tôi văn-chương tuy kém, nhưng lòng rất trọng người có tài. Tôi được nghe tiếng ngài đã lâu, chỉ mong có dịp theo gót, may sao lại gặp. Nhà tôi cũng gần đây, xin ngài quá bộ lại chơi. Ngài thích thứ gì sẽ được như ý”.
Những người đi với Lý, nghe nói đều tán-thành, rồi cùng người ấy, sánh ngựa cùng đi. Qua mấy phố, thì gần đến phường Thắng-nghiệp. Lý-sinh thấy gần nhà Tiểu-Ngọc, không muốn đi qua, liền quay đầu ngựa. Người hiệp-sĩ ngăn lại nói rằng: “Chỉ còn một quãng nữa thì đến nơi, sao ngài lại nỡ quay lại?”
Rồi người ấy nắm lấy cương ngựa của Lý mà dắt đi. Đến cửa họ Trịnh, Lý-sinh hoảng-hốt quất ngựa toan chạy. Người hiệp-sĩ vội bảo kẻ hầu ôm lấy Lý-sinh, rồi dẫn đến nhà Tiểu-Ngọc gọi cửa, nói rằng có Lý-thập-lang đến. Cả nhà nghe tin đều lấy làm mừng.
Đêm trước Tiểu-Ngọc có chiêm-bao thấy một người cao-lớn, mình mặc áo vàng, ôm Lý-sinh để lên giường, rồi bảo Tiểu-Ngọc thoát-hài nghĩa là cởi hài. Khi tỉnh dậy, nàng kể chiêm-bao ấy cho mẹ nghe, rồi lại tự đoán: “Chữ hài là giầy, thì đồng-âm với chữ hài là hợp; vậy thì vợ chồng sẽ hội hợp. Chữ thoát cũng như chữ giải, có nghĩa là buông ra; vậy thì sau khi hội-hợp tất phải lìa-tan. Cứ theo đó mà đoán, thì tất được gặp Lý-Ích, nhưng gặp rồi thì chết”.
Sáng hôm sau, Tiểu-Ngọc nói với mẹ chải đầu gỡ tóc, và trang-điểm cho nàng. Mẹ nàng cho là ốm-lâu, nên tâm-thần rối-loạn, tuy không tin mộng, nhưng cũng chiều lòng, bèn sắm-sửa chải-chuốt cho nàng. Trang-điểm vừa xong, thì quả-nhiên Lý đến. Vì Tiểu-Ngọc ốm lâu ngày, nên ngồi lên nằm xuống phải có người đỡ. Thế mà lúc ấy, nàng thấy nói Lý-sinh đến, một mình đứng dậy, thay áo chạy ra như người khỏe. Nàng trông thấy Lý-sinh, mắt nhìn chừng-chừng mà không nói được câu nào. Hình-dung nàng tiều tụy, nhưng cốt-cách vẫn yêu-kiều, nỗi đau-khổ hiện ra nét mặt. Một lúc sau, thấy ở ngoài bưng vào mấy mâm rượu, mọi người đều ngạc-nhiên; hỏi ra mới biết là của người hiệp-sĩ sai đưa đến mời mọi người.
Trong lúc uống rượu, Tiểu-Ngọc bước tới chỗ Lý-sinh, tay cầm chén rượu đổ xuống đất mà nói rằng: “Thiếp bạc-mệnh dường này, chàng nhẫn tâm thế ấy! Nay thiếp còn tuổi trẻ phải ngậm hờn mà chết, để lại mẹ già không kẻ thần-hôn, tơ chùng phím loan, xiêm là xếp bỏ, đều là tội ở chàng. Lý-lang! Lý-lang! từ nay vĩnh-biệt; ta chết đi quyết làm quỷ theo chàng suốt đời, không để cho yên”.
Tiểu-Ngọc nói rồi, một tay vỗ vào Lý-sinh, còn một tay cầm chén ném xuống đất, khóc to mấy tiếng, rồi ngã. Mẹ nàng thấy nàng ngã, vội ẵm nàng, để vào lòng Lý-sinh, bảo Lý-sinh gọi, nhưng gọi mãi cũng không sao tỉnh lại.
Lý-sinh thay đồ tang-phục, đêm ngày khóc-lóc rất thảm-thiết. Đêm trước hôm cất đám, chàng bổng-nhiên thấy Tiểu-Ngọc ở trong màn, trông đẹp như khi còn sống, mặc quần hồng áo tía như xưa, ngả mình vào bên màn, tay vuốt giải lưng, nhìn Lý-sinh mà nói rằng: “Thiếp ở chốn u-minh, xin cảm ơn chàng còn chút tình thừa đối với thiếp”. Tiểu-Ngọc nói rồi biến mất.
Sáng hôm sau an-táng nàng tại đồng Ngự-túc ở Trường-an. Lý-sinh khóc-lóc thảm-thương và đưa đến tận mộ. Một tháng sau, Lý-sinh cưới con gái họ Lư, nhưng trong dạ âu-sầu, nên không được tươi-tỉnh.
Tháng năm, Lý-sinh cùng Lư-thị về Trịnh-huyện, sau khi đến huyện được một tuần. Lý-sinh cùng Lư-thị đương nằm, thì chợt nghe thấy tiếng đằng-hắng ở ngoài màn. Lý-sinh vội dạy xem, thì thấy một người con trai, độ hai mươi tuổi, vẻ người tuấn-tú, nấp ở bên màn mà vẫy Lư-thị. Chàng giận lắm chạy lại để bắt thì chẳng thấy gì. Từ đấy, chàng đem lòng ngờ vợ. Hai người cùng cảm thấy không được yên-vui.
Một hôm chàng vừa đi vắng về, thấy Lư-thị đương ngồi gẩy đàn, bỗng từ ngoài cửa ném vào lòng Lư-thị một hộp giấy buộc dây lụa kết giải đồng tâm. Chàng mở ra xem, thì thấy hai hạt đậu tương tư, lại càng giận lắm, quát-tháo vang nhà, giật đàn đánh Lư-thị, rồi tra-hỏi những vậy ấy tự đâu mà đến. Lư-thị không thể nói được thế nào để giải nỗi oan.
Từ đấy, Lý-sinh đối với vợ rất là tàn-nhẫn, rồi đưa lên cửa quan xin ly-dị. Sau khi bỏ vợ rồi, nếu có chung-đụng với tỳ-thiếp, thì cũng đem lòng ngờ-vực ghen tuông, đến nỗi có người bị Lý ghen mà đánh chết.
Có lần Lý ra chơi Quảng-lăng, gặp người con-hát tên là Doanh-thập-nhất-nương, một trang tuyệt-sắc, nên cùng ăn-ở. Có khi Lý kể với nàng rằng người này vì bất-chính, nên bị Lý giết, kẻ kia thì lẳng-lơ nên bị Lý bỏ, để có ý dọa nàng. Mỗi khi Lý đi vắng, thì lấy chậu tắm úp nàng ở trên giường, rồi khóa cửa lại, lúc về xem-xét cẩn-thận rồi mới mở cho ra. Lý lại hay đeo thanh đoản-kiếm, và bảo cho tỳ-thiếp biết rằng thanh kiếm ấy đúc bằng thép cát-khê ở Tín-châu, chỉ để chém đầu những kẻ bất-chính.
Lý-sinh hễ gần đàn-bà là sinh ra lòng ghen, đến nỗi cưới vợ ba lần, đều cũng vì ghen mà bỏ cả.
HOÀI-CHÂU dịch
Last edited by bevanng on 29 Jan 2024, edited 2 times in total.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,802
Posts: 14209
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Điển Tích

Postby bevanng » 03 Feb 2023

Trác-Văn-Quân (Tình-Sử)

- Cầu-hoàng tay lựa nên vần,
Tương-Như lòng ấy, Văn-Quân lòng nào?

(BÍCH-CÂU KỲ-NGỘ)

- Kìa Văn-Quân mỹ-nhân thuở trước.
E đến kỳ đầu bạc mà thương.

(CHINH-PHỤ-NGÂM)

- Khúc đâu Tư-mã Phượng-cầu,
Nghe ra như oán như sầu phải chăng?

(KIM-VÂN-KIỀU)

- Phượng-cầu dù lựa nên cung,
Ngón cầm biết gẩy được lòng hay chăng?

(HOA-TIÊN)


Tư-mã Tương-Như, tự Trường-Khanh, là người đời Hán, quê ở Thành-đô, quyên được chức Quan-lang. Khi Hiếu-vương nước Lương vào chầu Cảnh-đế, thì có đem theo Châu-Dương và Mai-Thặng là bậc danh-nhân. Tương-Như vốn mộ tiếng hai người ấy, nên khi gặp mặt, rất là tương-đắc; lại vừa dịp nghỉ dưỡng bệnh, Tương-Như mới theo hai người sang nước Lương.
Trong khi ở nước Lương, Tương-Như có làm bài phú Ngọc-như-ý, vua nước Lương lấy làm hay, bèn ban cho chiếc đàn cầm, khắc bốn chữ “Đồng tử hợp tinh”.
Tương-Như ở được mấy năm, thì vua Hiếu-vương mất. Ông bèn trở về, nhưng nhà nghèo không đủ chi-dùng, mới tìm đến nhà bạn thân, là quan Thú-lệnh đất Lâm-cùng, tên là Vương Cát. Quan Thú-lệnh có vẻ quý-trọng Tương-Như, ngày nào cũng đến hầu chuyện.
Ở Lâm-cùng có một nhà giầu, tên là Trác-Vương-Tôn, thấy quan lệnh có khách quý, vội sửa tiệc mời quan Lệnh và Tương-Như. Quan Thú-lệnh nhận đến, còn Tương-Như thì thác là có bệnh mà chối-từ. Quan Thú-lệnh phải về mời, Tương-Như nể quá nên phải ôm đàn đến dự.
Rượu nửa chừng, quan Thú-lệnh mang đàn ra nói rằng: “Thấy nói tiên sinh đàn hay lắm, xin cho nghe một bài”.
Tương-Như khiêm-tốn mãi, rồi sau mới chịu gẩy mấy khúc. Con gái Trác-Vương-Tôn, tên là Văn-Quân, cũng biết âm-nhạc, lúc bấy giờ mới 17 tuổi mà đã góa chồng. Tương-Như biết thế, cho nên trong khúc đàn có ngụ ý khêu-gợi Văn-Quân. Những bài ca phổ vào khúc đàn như sau này:

Bài thứ nhất

Chim phượng này chừ về cố-hương
Dạo chơi bốn bể tìm chim hoàng
Thời chẳng gặp chừ dám vấn-vương
Tối nay sao bước tới thềm vàng
Có người mỹ-nữ chốn phòng hương
Gần hóa xa nhau luống đoạn-trường
Mong cùng ghếch cổ tựa uyên-ương
Liền cánh bay chừ khắp bốn phương.


Nguyên tác:

Phượng hề, phượng hề quy cố-hương,
Ngao-du tứ hải cầu kỳ hoàng,
Thời vị ngộ hề vô sở tương,
Hà ngô kim tịch thăng tư đường,
Hữu diễm thục-nữ xử lan phường,
Thất nhĩ nhân hà độc ngã trường,
Hà duyên giao cảnh vi uyên-ương,
Tương hiệt cang hề cộng cao tường.


鳳 兮 鳳 兮 歸 故 鄉
遨 遊 四 海 求 其 凰
時 未 遇 兮 無 所 將
何 悟 今 兮 昇 斯 堂
有 艷 淑 女 在 閨 房
室 邇 人 遐 毒 我 腸
何 緣 交 頸 為 鴛 鴦
胡 頡 頏 兮 共 翱 翔

Bài thứ hai

Chim phượng chừ đậu theo chim hoàng,
Nhờ nơi hoa vĩ kết bạn vàng.
Mối tình khăng-khít dạ thêm càng,
Đêm khuya cùng trốn, ai tỏ-tường?
Cất cánh lên cao bay thẳng hàng,
Rầu-rĩ lòng ta nếu chẳng thương.


Nguyên tác:

Phượng hề phượng hề tòng hoàng thê
Đắc thác hoa vĩ vinh vi phi
Giao tình thông-thể tâm hòa hài,
Trung dạ tương tòng tri giả thùy
Song dục câu khởi phiên cao phi.
Vô cảm ngã tư sử dư bi.


鳳 兮 鳳 兮 從 凰 棲
得 托 華 尾 永 爲 妃
交 情 通 體 心 和 諧
中 夜 相 從 知 者 誰
雙 翼 俱 起 翻 高 飛
無 感 我 思 使 予 悲


Văn-Quân nấp ở nhà trong, dòm xem thấy Tương-Như tài-mạo, lấy làm yêu-quý lắm, lại tự lo không biết rằng mình có xứng-đáng với Tương-Như không. Khi tan tiệc, Tương-Như mượn người cho tiền con thị-tỳ hầu Văn-quân để thông-tin. Đến đêm Văn-Quân trốn ra với Tương-Như. Tương-Như liền lấy xe đưa Văn-Quân về nhà. Lúc ấy nàng mới rõ là nhà tranh vách đất.
Trác-Vương-Tôn khi biết chuyện, cả giận mà nói rằng: “Văn-Quân đến thế thì thật là hư quá. Ta không nỡ giết đi, nhưng không mặt-mũi nào mà nhận nó nữa”.
Nhiều người khuyên-giải, nhưng Vương-Tôn cũng không nghe.
Tương-Như nghèo quá, vợ-chồng sinh ra chán-nản buồn-rầu. Nhà chỉ còn một chiếc áo lông cừu, đành phải cầm đi lấy tiền mua rượu cùng uống giải sầu. Khi uống hết rượu, Văn-Quân than rằng: “Thiếp thường vẫn được phong-lưu, nay phải đem áo cừu cầm đi để mua rượu, thực là rất khổ”.
Hai người lại đưa nhau đến Lâm-cùng. Khi đến nơi, liều bán cả xe ngựa để lấy tiền mua một quán rượu. Văn-Quân thì ngồi bán, còn Tương-Như thì cùng với người làm rửa bát ngay giữa chợ.
Trác-Vương-Tôn nghe biết thế, lấy làm xấu-hổ, đóng cửa không dám ra ngoài. Những người thân-thích đến khuyên ông rằng: “Ông có tiếng là giầu, mà chỉ sinh được một trai, hai gái. Nay Văn-Quân đã trót theo Tư-mã Tương-Như, thì việc cũng đã lỡ rồi. Thế mà Tương-Như là người tài-ba, nay tuy nghèo-khó, nhưng rất nổi danh, chắc sau này không chịu kém người. Vả Tương-Như lại là khách quý của quan Thú-lệnh, sao ông nỡ để nhục như thế?”
Trác-Vương-Tôn nghe nói phải nén giận mà cho tiền-của và đồ hồi-môn khi trước. Văn-Quân và Tương-Như đem của về Thành-đô, tậu nhà-cửa vườn-ruộng, rồi dần-dần trở nên giầu-có. Được ít lâu, Vua xem bài phú Tử-hư của Tương-Như, lấy làm hay, vời vào triều, phong cho chức Quang-lang.
Mấy năm sau, Vua muốn kết thân với các rợ ở tây-nam, phong cho Tương-Như làm Trung-lang tướng để đi sứ. Khi đến đất Thục, Thái-tử và các quan ra ngoài thành đón-tiếp, rất mực vẻ-vang. Bấy giờ Trác-Vương-Tôn mới hối rằng trước kia mình đã xử tệ với Tương-Như, bèn chia gia-tài cho con gái cũng như con trai vậy.
HOÀI-CHÂU dịch
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,802
Posts: 14209
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Điển Tích

Postby bevanng » 04 Feb 2023

Bạch Đằng


Tức là con sông Bạch-Đằng. Nơi đây đã ghi lại những chiến công hiển hách của quân ta. Lần thứ nhứt Ngô-Quyền đánh tan quân Nam-Hán. Khi Kiều-công-Tiện mưu giết cha nuôi là Tiết- độ-Sứ Dương-Diên-Nghệ để giành quyền. Ngô-Quyền trước là thuộc tướng, nhưng về sau là rể của Diên-Nghệ, đang đóng quân ở đất Ái-Châu, tức tỉnh Thanh-Hóa ngày nay, liền kéo binh ra Bắc để báo thù cho chủ tướng. Công-Tiện liệu thế cự không lại, liền cho người sang cầu cứu với chúa Nam-Hán là Lưu-Cung. Binh Nam-Hán chưa đến thì Ngô Quyền đã chiếm được thành Đại-La và giết Công-Tiện rồi. Hán Chúa định thực hiện mộng xâm lăng liền cho con là Thái Tử Hoằng-Tháo đem mười lăm vạn quân theo đường biển, và chính Hán-Chúa tự đốc xuất mười vạn binh theo ngã Lạng-Sơn kéo vào nội địa nước ta. Khi binh Hoằng-Tháo gần đến sông Bạch-Đằng, Ngô-Quyền liền bày kế đóng cọc vạt nhọn đầu bịt sắt trong lúc nước triều xuống, chờ cho quân địch lọt vào vòng vây sẽ dùng thuyền nhẹ tấn công. Khi đại quân của Hoằng- Tháo vào khỏi cửa Lục-đầu, lúc bấy giờ nước triều lên cao, chúng không trông thấy gì cả, quân ta làm kế dụ địch, chúng không ngờ lọt vòng vây, quân ta dùng thuyền độc mộc tấn công, lại nhân nước triều vừa xuống, thuyền địch bị va vào các cọc bịt sắt bị đâm thủng và thuyền bị chìm ngổn ngang, quân địch bối rối vì hàng ngũ bị loạn. Trên bờ những tay cung thủ dùng tên lửa bắn cháy thuyền dịch, lớp những nỏ và đá nhắm vào quân Nam-Hán bắn xuống như mưa, quân sĩ la khóc vang trời. Quân ta thắng trận một cách oai hùng tiêu diệt hơn mười vạn quân Nam Hán, Thái-Tử Hoằng-Tháo bị bắt sống và bị giết ở Đại-La-Thành năm Kỷ-Hợi (959). Hán Chúa Lưu-Cung hay tin đội quân bị đại bại, con bị giết, vô cùng hoảng sợ và rầu buồn, liền rút quân về Tàu.
Cũng tại Bạch-Đằng-Giang lần thứ hai, Hưng Đạo Đại-Vương thắng tướng Ô-Mã-Nhi nhà Nguyên. Khi tướng Trần-Khánh-Dư diệt được đoàn thuyền vận lương của giặc tại bến Vân Đồn. Hưng-Đạo-Vương biết thế nào địch cũng cho rút quân ra ngã sông Bạch-Đằng, liền áp dụng chiến thuật của Ngô-Quyền ngày trước, nhờ ngọn thủy triều đại phá quân Nguyên một cách oanh liệt vào tháng ba năm Mậu-Tý (1228) bắt sống được tướng Ô-Mã-Nhi, vài vạn quân Nguyên và tịch thâu trên bốn trăm chiến thuyền của địch.
Bạch-Đằng giang, tức là con sông Nhị-Hà. Trên bài ca “Bạch-Đằng-Giang” do Lưu Hữu Phước viết lời, Mai-văn-Bộ phổ nhạc, chiếm giải thưởng của Hội Khuyến-Học Nam-Kỳ năm 1942 có câu :
Đây Bạch-Đằng giang, sông hùng dũng của nòi giống anh hùng;
Giống Tiên-Rồng, giống Lạc-Hồng: Nam, Bắc, Trung.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,802
Posts: 14209
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Điển Tích

Postby bevanng » 08 Feb 2023

Bàng Quyên


Người nước Ngụy, đời chiến quốc, cùng Tôn Tẩn, người nước Tề theo học với thầy là Quỉ Cốc tiên sinh về môn binh pháp. Theo thầy học đã ba năm, nhân một buổi gặp người gánh nước cho biết nước Ngụy đang cần người tài ra giúp nước, trong bụng Bàng Quyên cho mình đã theo thầy học bấy lâu có thể ra làm tướng được, nhưng chưa dám xin đi. Quỉ Cốc tiên sinh cho rằng Bàng Quyên đã gặp thời vận nên xuống núi mà cầu được giàu sang. Quỉ Cốc lại sai Bàng Quyên hái một cành hoa về để đoán tương lai sau này. Bàng Quyên đi tìm hoa, nhưng vào lúc tháng sáu, tiết trời còn nóng nực cây cối chưa có hoa nhiều, gặp được một cây hoa cỏ, liền nhổ lên, nhưng lại nghĩ không phải là loài hoa quý lại vứt di. Tìm mãi không hoa, Bàng Quyên lại trở lại chỗ cũ nhặt lại cánh hoa héo lúc nãy, giấu vào tay áo mang về. Thấy thầy Quĩ Cốc đang chờ, Bàng Quyên trình thầy là không có hoa. Quỉ Cốc nói hoa nở trong tay áo nhà ngươi sao bảo là không có hoa. Bàng Quyên bất đắc dĩ phải trình cành hoa héo lên. Quỉ Cốc cho biết đây là hoa “mã đầu linh”, mỗi lần nở mười hai nụ, ứng vào cái số năm nhà ngươi được vẻ vang. Hoa này có ánh mặt trời thì héo, ứng vào điềm nhà ngươi sau này là dối người nên bị người phỉnh gạt lại. Nhà ngươi hãy lấy điều ấy mà răn mình. Nhà ngươi ghi nhớ tám chữ này : “Gặp dê thì vinh, gặp ngựa thì hỏng”. Bàng Quyên từ giã thầy xuống núi, và từ biệt bạn đồng học là Tôn Tẩn hứa sau này làm nên danh phận sẽ cho người lên rước để anh em cùng cộng hưởng sang giàu. Bàng Quyên đến nước Ngụy, gặp lúc vua Ngụy là Ngụy Huệ Vương đang dùng món thịt dê hầm. Đúng theo lời tiên tri của Quỉ Cốc, Bàng Quyên được Huệ Vương trọng dụng và phong làm Nguyên Soái, đánh được các nước Vệ, Tống, Lỗ, Trịnh, khiến các nước sợ hãi phải mang lễ vật sang Ngụy triều cống. Tề sợ để nước Ngụy mạnh sẽ họa lây, cử binh sang đánh, bị Bàng Quyên đánh bại, từ đó Bàng Quyên huênh hoang tự đắc, cho là mình vô địch. Bàng Quyên đã quên lời hứa với Tôn Tẩn khi hạ sơn. Nhờ có Mặc Địch là bạn thân của Quỉ Cốc tiến cử với Ngụy Vương, Bàng Quyên buộc lòng viết thơ mời Tôn Tẩn xuống giúp. Nhận thấy Tôn Tẩn tài giỏi hơn, Bàng Quyên tìm kế mưu hại chặt chân và khắc vào mặt. Nhờ có cẩm nang của thầy Tôn Tẩn liền giả điên, Bàng Quyên định bắt Tôn Tẩn chép xong mười ba thiên binh thơ của Tôn Võ là sẽ giết đi cho mất hậu hoạn, nhưng thấy Tôn Tẩn điên tưởng thật không hề lưu ý tới. Mặc Địch lại một lần nữa sang qua đất Tề yêu cầu Điền Kỵ tâu trình mọi việc với Tề Uy Vương để rước Tôn Tẩn về Tề. Sau khi qua đất Tề, Tôn Tẩn đem hết tài trí giúp Tề đánh Ngụy. Trong khi Bàng Quyên, đem binh qua đánh nước Triệu đang thắng trận, Tôn Tẩn lại cùng Điền Kỵ thống lãnh ba quân qua đánh Ngụy. Nhờ Tôn Tẩn bày thế trận “bát môn”, Điền Kỵ thắng được Bàng Quyên và làm cho Quyên kinh sợ, phải lén bỏ dinh trại trốn về Ngụy. Vì có sự đố kỵ của quan Tướng quốc là Sô Kỵ, Điền Kỵ và Tôn Tẩn đang được vua Tề tin dùng, đều xin từ chức. Bàng Quyên được tin Tôn Tẩn không còn cầm quyền binh nữa lấy làm vui mừng, xin với Ngụy Vương để dem binh sang đánh nước Hàn. Vua Hàn sợ liền cho sứ sang Tề cầu cứu. Tề Uy Vương ở nước Tề vừa mất, Tề Tuyên Vương nối ngôi cha trọng dụng Điền Kỵ và Tôn Tẩn trở lại. Tôn Tẩn khuyên nên giúp Hàn, nhưng phải chờ cho Bàng Quyên đánh Hàn, rồi sẽ cứu sau. Bàng Quyên cùng Thái Từ Thân của nước Ngụy đem binh đánh Hàn thắng trận liên tiếp, Tôn Tẩn lại bày mưu đem binh sang đánh Ngụy. Bàng Quyên và Thái Tử Thân đành bỏ Hàn đem binh về cứu viện. Nhân Bàng Quyên khinh xuất hối hả về Ngụy, Tôn Tẩn cho binh phục, và bày trận thế gạt Bàng Quyên vào con đường cùng ở Mã Lăng. Bàng Quyên trúng kế và bị quân Tề dùng cung nõ bắn bị thương nặng, sợ bị bắt nhục nhã, Bàng Quyên rút gươm tự tử. Lúc hạ sơn, Quỉ Cốc tiên sinh đã tiên đoán Bàng Quyên lừa người, bị người lừa lại. Và câu nói: “Gặp dê thì vinh, gặp ngựa thì hỏng”, đã hiệu nghiệm, Bàng Nguyên chết tại Mã lăng. Và từ ngày Bàng Quyên được trọng dụng ở nước Ngụy cho đến khi chết tại Mã Lăng vừa đúng 12 năm, ứng vào đóa hoa mã đầu linh nở 12 nụ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,802
Posts: 14209
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Điển Tích

Postby bevanng » 14 Feb 2023

Bành Việt


Một võ tướng nước Sở, đời Đông-Châu liệt-quốc, trấn đóng tại Bành-Thành, sau phò nhà Hán, lập được nhiều công to, được phong đến chức Lương-Vương, làm vua nước Lương. Nhân Bành-Việt mắng chưởi quan Thái Bộc nước Lương thậm tệ, Quan Thái-Bộc định tâm trả thù Bành-Việt, liền trốn về đất Hán, tâu với Hán-đế Lưu-Bang là Bành-Việt mưu làm phản nên theo phe với Hàn-Tín (lúc bấy giờ Hàn-Tín đã bị giết rồi), lại lúc Trần-Hy làm phản, Bành-Việt không tuân lệnh ra quân đánh bắt Hy. Hán-Đế hỏi ý kiến Trần-Bình, Bình khuyên nên cho sứ triệu Bành-Việt về giữ lại ở Hán, rồi truyền cách chức lột cả binh quyền. Hán-đế sai Lục-Gia ra triệu Lương-Vương Bành-Việt về. Hồ-Triệt khuyên can Bành-Việt không nên về Hán, vì sợ bị giết như Hàn-Tín thuở nọ. Bành Việt không nghe lời quan Đại-Phủ Hồ-Triệt. Về-Hán, Bành-Việt bị cách chức và cho ra làm thứ dân ở Thanh-Y, thuộc Tây-Xuyên. Bành-Việt bị đày đi Tây-Xuyên lấy làm đau lòng, nhân lúc Lã Hậu tháp tùng Hán-đế sang thành Lạc-Dương, Bành-Việt đều kêu oan với Lã-Hậu, Lã-Hậu lại nói sẽ tâu lên Hán-Đế minh xét lại, nhưng mật tâu xin Hán-Đế giết Bành-Việt sợ ngày sau sanh tâm phản loạn, trở tay không kịp. Hán-Đế nghe theo lời Lã-Hậu, truyền chỉ kết án phản quốc rồi giết chết, lại nghe Lã-Hậu lóc thịt Bành-Việt làm mắm đem gởi cho các chư hầu làm gương, Trong thời Đông-Châu, Bành-Việt cũng như Anh-Bố đều là những tướng tầm thường. Cậy có sức mạnh, theo Hán dâng thành phản Sở, sau lại có ý phản Hán để bị tru diệt, rốt cuộc chỉ chạy theo công danh, không có một đường lối rõ rệt gieo họa hại vào thân, rước lấy cái chết nhục nhã, thua xa Hồ-Triệt và Khoái-Kiệt.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,802
Posts: 14209
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Điển Tích

Postby bevanng » 14 Feb 2023

Bao tự


Đời nhà Châu, từ đời vua Văn Vương, Võ-Vương, đời thái bình thạnh trị. Qua đến đời Thành-Vương và Khương-Vương nhờ lấy đức trị dân và được các bậc trung thần hết lòng phò tá như Châu-Công, Thiệu-Công, Tất-Công, Sử-Dật, cơ nghiệp được vững bền. Nhà vua lại lấy đức trị dân, theo Vương-đạo, nên trăm họ đều dược hưởng thái bình. Qua đến đời thứ tám là Di-Vương, và đời thứ chín là Lệ-Vương đều nhu nhược, cơ nghiệp bắt đầu suy yếu, các nịnh thần toan thí chúa, nhưng nhờ có Châu-Công và Thiệu-Công đồng tâm cứu nước lập Thái-tử Tịnh lên nối nghiệp, xưng hiệu là Tuyên-Vương. Tuyên-Vương nhờ biết trọng hiền tài hết lòng lo việc nước, nên cơ đồ được thịnh trị trong vòng mười chín năm, kế có giặc Khương-Nhung dấy loạn nhà vua phải ngự giá. Nhưng thua luôn mấy trận, nhà vua phải mộ thêm binh sĩ để có đủ binh lực chiến đấu. Khí thế nhà Châu lần hồi suy yếu, nhà vua lại mê tín dị doan, giết trung thần là Đỗ-Bá, Tả-Nho làm quan Đại-Phu cũng tự tử chết theo bạn đồng liêu. Tuyên-Vương mất, con là Thái-Tử Cung-Niếc lên nối ngôi tức là U-Vương. U-Vương bạo ngược hoang dâm vô độ, cách chức các trung thần, hạ ngục người trung nghĩa gián can, lại tin theo lời bọn xu nịnh là Quách-Công, Tế-Công và Doãn-Cầu và cho chúng lên làm Tam-Công. Mặc tang cha còn, mặc cho động đất, sông cạn nhân dân đói khổ, U-Vương vẫn vui cười, vẫn say sưa hỷ hả với mỹ nữ thâu đêm suốt sáng. Quan Đại-Phu Triệu-Thúc-Đái can gián, bị lời dèm xiểm của Quách-Công, U-Vương cách chức đuổi về quê. Bao-Hướng làm quan Đại-Phu ở Bao-Trung về vào can ngăn nhà vua cũng bị bắt giam vào ngục. Con của Bao-Hướng là Bao-Hồng-Đức thấy cha bị hàm oan, liền chuộc nàng Bao-Tự, con gái nuôi của Tư-Đại ở Bao Thành về dạy các nghi lễ rồi sửa sang cho ăn mặc đẹp, đút lót với Quách-Công để nhờ tiến dẫn lên vua xin tội cho cha là Bao-Hướng. Nhận được nhiều của, Quách-Công liền đem Bao-Tự vào cung tâu với U-Vương xin tha tội cho Bao-Hướng. U-Vương được Bao-Tự là gái sắc nước hương trời, liền hạ chiếu tha Bao-Hướng và cho phục chức cũ. Nguyên Bao-Tự là quái thai cua người cung nữ già, bị đem bỏ trôi sông, và có hai vợ chồng người kia vì trái lệnh của Tuyên-Vương (cha của U-Vương) đem cung tên vào Kinh-Đô bán nên vợ bị bắt giết, người chồng buồn khổ xuống sông Thanh-Thủy vớt được đứa bé gái bị bỏ trôi sông đem về nuôi, sau vì nghèo túng quá mới cho Tư-Đại nuôi.
Từ khi được tuyển vào cung, Bao-Tự làm mê hoặc U-Vương bỏ cả việc triều chánh, càng hoang dâm vô độ hơn, phế ngôi Chánh-Hậu của Thân-Hậu là con của vua nước Thân, lập Bao-Tự làm Hoàng-Hậu. U-Vương lại phế ngôi Thái-Tử Nghi-Cựu đưa về nước Thân cho ông ngoại dạy dỗ, đem Bá-Phục là con của Bao-Tự lên làm Đông Cung Thái-Tử. Bao-Tự lại không cười bao giờ. Để làm vừa lòng Bao-Tự, U-Vương truyền đem xé hàng trăm cây lụa trong kho, vì nghe nói Bao-Tự thích tiếng xé lụa hơn tiếng đờn hát. U-Vương lại nghe theo lời Quách-Công, đốt lửa ở Ly-Sơn và nổi trống dối gạt chư hầu đến để cho Bao-Tự cười vui thỏa thích. Nguyên từ đời nhà Châu, để phòng ngừa giặc Hung nô và rợ Khương-Nhung ở phía Bắc xuống kinh thành quấy nhiễu, các đời tiên vương cho xây những phong hỏa đài ở Ly Sơn và đặt những cổ trống lớn. Hễ mỗi khi thấy lửa ở phong hỏa đài đốt lên và có tiếng trống nổi dậy, các chư hầu biết đó là hiệu lịnh báo ở Kinh có loạn, phải đến cứu viện. Nghe theo lời Quách-Công, U-Vương đã bỏ cả luật-lệ của ông cha từ trước, làm nhục chư hầu để cốt được tiếng cười của Bao-Tự, và lại đem ngàn vàng thưởng ban cho Quách-Công, người đã bày kế giúp mỹ nhân cười được. Do đó, khi Thân-Hầu, cha vợ U-Vương mượn rợ Khương-Nhung về can gián nhà vua, bắt gian thần hài tội, chúa Khương-Nhung nhân cơ hội cướp Kinh đô, U-Vương phải chạy trốn đến Ly-Sơn nổi lửa cầu cứu, chư hầu vì oán nhà vua đã làm nhục ngày trước, không chịu đến tiếp cứu. U-Vương và con của Bao-Tự là Bá-Phục bị vua Khương Nhung giết chết, còn Bao-Tự thì bắt đem về làm vợ trong kinh thành nhà Châu. Thân-Hầu trước tình thế ấy, phải mượn binh các nước Tần, Tấn, Vệ và Trịnh để giải vây kinh thành. Giặc Khương-Nhung bị thua to. Nhung chúa bỏ chạy thoát thân, Bao-Tự chạy theo không kịp, liền rút gươm tự tử. Một người hữu sắc như Bao-Tự nếu kèm theo đó một đức hạnh, thì nhà Tây-Châu không phải đỗ vỡ tan tành, U-Vương không chết một cách oan uổng dưới tay của rợ Khương-Nhung. Người ta thường nói “Hữu nhan sắc, hữu ác đức” không sai vậy. Đành rằng luật vay trả, cha con của Tuyên-Vương và U-Vương nhà Châu đã gây ra nhiều oan trái, oán hờn, thì phải gánh lấy hậu quả thảm khốc, nhưng cái sắc của Bao-Tự là một lưỡi gươm sắc bén, nụ cười nghiêng thành đỗ nước của nàng đã đổi lấy sanh mạng U-Vương và cả cơ nghiệp nhà Châu thật là quá đắt. Trong thơ có câu :
Nụ cười Bao-Tự ngàn vàng,
Nhà Châu mất nghiệp, giang san điêu tàn.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,802
Posts: 14209
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Điển Tích

Postby bevanng » 15 Feb 2023

Bảo-Thúc Nha


Cũng gọi là “Bảo Tử”, người nước Tề, thời Đông Châu liệt quốc. Bảo Thúc Nha với Quản Trọng vốn là đôi bạn tri kỷ từ lúc hàn vi. Bảo Thúc Nha hùn vốn đi buôn với Quản Trọng, khi được lời thì Quản Trọng dành phần nhiều. Có người bảo với Thúc Nha, Quản Trọng là người bạn xấu, hay tham lam. Thúc Nha cười đáp: Không phải thế đâu, Quản Trọng rất tốt chỉ vì nhà nghèo không đủ tiêu dùng. Khi cả hai vào trong quân ngũ, khi ra trận Quản Trọng cứ hay lùi về phía sau, nhiều người cho là Quản Trọng hèn nhát. Thúc Nha bênh vực cho rằng Quản Trọng sở dĩ không dám hy sinh, vì nhà còn mẹ già phải phụng dưỡng. Con người Quản Trọng chưa gặp thời đó thôi. Đã gặp thời rồi thì trăm việc không hề sai một. Quản Trọng thường nói với mọi người: Sinh ta ra ấy là cha mẹ ta. Hiểu biết được ta chỉ có Bảo Thúc Nha mà thôi. Bảo Thúc Nha và Quản Trọng đều giúp cho nước Tề. Nhưng lúc bấy giờ vua Tề là Tương Công hoang dâm vô độ, làm nhiều việc thất nhân tâm, mọi người đều ta thán. Khi nước Tề có biến, Bảo Thúc Nha và Quản Trọng cùng phân công nhau mỗi người giúp một Công tử nước Tề trốn ra nước ngoài để lo việc mai hậu cho quốc gia. Quản Trọng giúp Công tử Củ chạy sang nước Lỗ. Thúc Nha thì phò Công tử Tiểu Bạch sang nước Cử để lánh nạn, vì Thúc Nha cho rằng nước Cử gần ở Tề, nếu có phương tiện và dịp may về Tề mau hơn. Sau khi vua Tề Tương Công bị ám sát, Bảo Thúc Nha đưa Công tử Tiểu Bạch về nước sớm và lên ngôi tức vị, tức là Tề Hoàn Công. Lỗ Trang Công cũng ủng hộ Công tử Củ về nước, nhưng không kịp, vì Công tử Tiểu Bạch đã tức vị rồi, Lỗ Trang Công lấy làm tức giận liền xua quân sang đánh Tề, nhưng bị bại trận ở Kiền Thời, vua Lỗ phải bỏ xe chạy thoát thân. Bảo Thúc Nha liền tâu với Tề Hoàn Công hiện nay Công tử Củ ở nước Lỗ với Thiệu Hốt và Quản Trọng, đó là mối di hại về sau cần phải trừ đi. Tề Hoàn Công chuẩn tấu. Bảo Thúc Nha đích thân mang quân sang Lỗ. Khi quân Tề sang đất Vấn Dương, Bảo Thúc Nha sai Công Tôn Thấp Bằng mang thơ sang Lỗ trình lên Lỗ Trang Công đại ý nói nước Tề không thể có hai vua. Nay Tề Hoàn Công đã lên ngôi, Công Tử Củ còn ở Lỗ mong cướp ngôi, nhưng dù sao vẫn là tình máu thịt không nở đánh giết, xin nhờ Lỗ. Riêng hai người theo phò Công Tử Củ là Thiệu Hốt và Quản Trọng xin cho bắt đem về trị tội. Bảo Thúc Nha lại dặn riêng Thấp Bằng tìm cách cứu thoát Quản Trọng. Vì mới bị thua Tề, vua Lỗ dành cho người lén giết Công Tử Củ để cầu hòa. Thiệu Hốt dập đầu vào cột đá mà chết. Quản Trọng bị bắt. Thi Bá là tôi thần của Lỗ Trang Công đề nghị vua Lỗ nên giữ Quản Trọng lại dùng, bằng không thì nên giết đi vì Quản Trọng !à người tài, về Tề sẽ được người bảo lãnh, chắc không bị giết. Thấp Bằng nghe ý định vua Lỗ tính giết Quản Trọng liền can thiệp, viện cớ là Hoàn Công rất giận và thù Quản Trọng bắn vào đai thắt lưng khi trước, nên nay muốn bắt cho được Quản Trọng đem về để trả thù. Nhờ đó Quản Trọng được tha về. Bảo Thúc Nha lại tiến cử Quản Trọng với Hoàn Công được trọng dụng, lại quyết định nhường quyền Tướng quốc cho Quản Trọng và còn đề nghị Hoàn Công phải chọn ngày lành thân hành đến rước Quản Trọng. Hoàn Công nghe theo. Về sau, nước Tề nhờ Quản Trọng mà được hùng cường. Đến khi Quản Trọng mất, và các vị đại thần như Ninh Thích, Tân Tu Vô, Thấp Bằng cũng lần lượt mất hết, nước Tề không còn ai xứng đáng để giữ chức Tể Tướng, Hoàn Công yêu cầu Bảo Thúc Nha giữ chức ấy. Thúc Nha tâu cần phải loại bỏ những kẻ gian nịnh như Khai Phương, Dịch Nha, Thụ Điêu, thì mới chịu đảm nhận việc nước. Hoàn Công nghe theo, nhưng ít lâu sau lại buồn và cho phục chức bọn Thụ Điêu, Dịch Nha, Khai Phương như cũ. Bảo Thúc Nha buồn rầu, uất ức quá sanh bệnh mà mất. Nước Tề từ đó suy vong, và bọn Thụ Điêu, Dịch Nha, Khai Phương lại có dịp lộng hành. Người đời sau cứ đem ví cái tình bạn tri kỷ của Bảo Thúc Nha và Quản Trọng trên đời nầy chưa dễ mấy ai được như vậy, không khác gì tình bạn tri âm của Bá Nha Tử Kỳ, Bảo Thúc Nha đã quyết vì quyền lợi quốc gia, gát bỏ mọi tỵ hiềm ích kỷ, tiến cử Quản Trọng với Tề Hoàn Công, cho ta thấy rõ tấm lòng thiết tha yêu nước của một bậc hiền triết.


1. Xuân Thu: (chữ Trung Quốc: 春 秋 時 代; Hán Việt: Xuân Thu thời đại) là tên gọi một giai đoạn lịch sử từ 722 đến 481 TCN trong lịch sử Trung Quốc. Tên của nó bắt nguồn từ cuốn Kinh Xuân Thu (Biên niên sử Xuân Thu), một cuốn sử mà theo truyền thống thường được coi là của Khổng Tử. Ở giai đoạn Xuân Thu, quyền lực được tập trung hoá. Giai đoạn này xảy ra rất nhiều các trận chiến và sự sáp nhập khoảng 170 nước nhỏ.
2. Tề: là tên gọi của một quốc gia chư hầu của nhà Chu, được thành lập khoảng thế kỷ 11 TCN và tan rã năm 221 TCN. Trong thời kỳ Chiến Quốc, Tề nổi lên như là một nhà nước hùng mạnh, được sử sách coi là 1 trong số 7 quốc gia có ảnh hưởng lớn nhất thời kỳ đó, tức thất hùng.
3. Tề Hoàn công: (chữ Hán: 齊 桓 公; trị vì: 685 TCN – 643 TCN), tên thật là Khương Tiểu Bạch (姜 小 白), là vị vua thứ 16 nước Tề.
4. Quản Trọng: (chữ Hán: 管 仲; 725 TCN – 645 TCN) là một chính trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởng Trung Quốc thời Xuân Thu (685 TCN). Tên ban đầu của ông là Di Ngô (夷 吾). Trọng là tên hiệu. Ông nổi tiếng với “chiến lược không đánh mà thắng” mà người Trung Hoa gọi là diễn biến hòa bình – đó là tấn công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để giáo huấn.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,802
Posts: 14209
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Điển Tích

Postby bevanng » 17 Feb 2023

Bình Ngô Đại Cáo


Bài bố cáo với quốc dân về việc vua Lê Thái Tổ đã bình định xong giặc nhà Minh bên Tàu, viết bằng chữ Hán, do đại thần Nguyễn Trải làm ra. Trong bài nầy, Nguyễn Trải đã dùng tài văn chương ca tụng công nghiệp khai sáng cua vua Lê. Lời lẽ trong bài “Bình Ngô Đại Cáo” rất hùng hồn, sắc bén, nêu cao hùng khí của người xưa và tinh thần bất khuất của dân tộc ta. Đọc văn trong bài nầy, hậu thế lấy làm hãnh diện trước cảnh vinh quang của đất nước và lấy làm hứng khởi.


Bình Ngô đại cáo 平吳大告


平吳大告
代天行化皇上若曰。

蓋聞:
仁義之舉,要在安民,
弔伐之師莫先去暴。
惟,我大越之國,
實為文獻之邦。
山川之封域既殊,
南北之風俗亦異。
自趙丁李陳之肇造我國,
與漢唐宋元而各帝一方。
雖強弱時有不同
而豪傑世未常乏。
故劉龔貪功以取敗,
而趙禼好大以促亡。
唆都既擒於鹹子關,
烏馬又殪於白藤海。
嵇諸往古,
厥有明徵。
頃因胡政之煩苛。
至使人心之怨叛。
狂明伺隙,因以毒我民;
惡黨懷奸,竟以賣我國。
焮蒼生於虐焰,
陷赤子於禍坑。
欺天罔民,詭計蓋千萬狀;
連兵結釁稔惡殆二十年。
敗義傷仁,乾坤幾乎欲息;
重科厚歛,山澤靡有孑遺。
開金場塞冒嵐瘴而斧山淘沙,
採明珠則觸蛟龍而緪腰汆海。
擾民設玄鹿之陷阱,
殄物織翠禽之網羅。
昆虫草木皆不得以遂其生,
鰥寡顛連俱不獲以安其所。
浚生靈之血以潤桀黠之吻牙;
極土木之功以崇公私之廨宇。
州里之征徭重困,
閭閻之杼柚皆空。
決東海之水不足以濯其污,
罄南山之竹不足以書其惡。
神民之所共憤,
天地之所不容。

予:
奮跡藍山,
棲身荒野。
念世讎豈可共戴,
誓逆賊難與俱生。
痛心疾首者垂十餘年,
嘗膽臥薪者蓋非一日。
發憤忘食,每研覃韜略之書,
即古驗今,細推究興亡之理。
圖回之志,
寤寐不忘。
當義旗初起之時,
正賊勢方張之日。

奈以:
人才秋葉,
俊傑晨星。
奔走先後者既乏其人,
謀謨帷幄者又寡其助。
特以救民之念,每鬱鬱而欲東;
故於待賢之車,常汲汲已虛左。

然其:
得人之效茫若望洋,
由己之誠甚於拯溺。
憤兇徒之未滅,
念國步之遭迍。
靈山之食盡兼旬,
瑰縣之眾無一旅。
蓋天欲困我以降厥任,
故與益勵志以濟于難。
揭竿為旗,氓隸之徒四集
投醪饗士,父子之兵一心。
以弱制彊,或攻人之不備;
以寡敵眾常設伏以出奇。

卒能:
以大義而勝兇殘,
以至仁而易彊暴。
蒲藤之霆驅電掣,
茶麟之竹破灰飛。
士氣以之益增,
軍聲以之大振。
陳智山壽聞風而;褫魄,
李安方政假息以偷生。
乘勝長驅,西京既為我有;
選兵進取,東都盡復舊疆。
寧橋之血成川,流腥萬里;
窣洞之屍積野,遺臭千年。
陳洽賊之腹心,既梟其首;
李亮賊之奸蠹,又暴厥屍。
王通理亂而焚者益焚,
馬瑛救鬥而怒者益怒。
彼智窮而力盡,束手待亡;
我謀伐而心攻,不戰自屈。
謂彼必易心而改慮,
豈意復作孽以速辜。
執一己之見以嫁禍於他人,
貪一時之功以貽笑於天下。
遂靈宣德之狡童,黷兵無厭;
仍命晟昇之懦將,以油救焚。
丁未九月柳昇遂引兵猶邱溫而進,
本年十月木晟又分途自雲南而來。
予前既選兵塞險以摧其鋒,
予後再調兵截路以斷其食。
本月十八日柳昇為我軍所攻,計墜於支稜之野;
本月二十日柳昇又為我軍所敗,身死於馬鞍之山。
二十五日保定伯梁銘陣陷而喪軀,
二十八日尚書李慶計窮而刎首。
我遂迎刃而解,
彼自倒戈相攻。
繼而四面添兵以包圍,
期以十月中旬而殄滅。
爰選貔貅之士,
申命爪牙之臣。
飲象而河水乾,
磨刀而山石鈌。
一鼓而鯨刳鱷斷,
再鼓而鳥散麇驚。
決潰蟻於崩堤,
振剛風於稿葉。
都督崔聚膝行而送款,
尚書黃福面縛以就擒。
僵屍塞諒江諒山之途,
戰血赤昌江平灘之水。
風雲為之變色,
日月慘以無光。
其雲南兵為我軍所扼於梨花,自恫疑虛喝而先以破腑;
其沐晟眾聞昇軍所敗於芹站,遂躪藉奔潰而僅得脫身。
冷溝之血杵漂,江水為之嗚咽;
丹舍之屍山積,野草為之殷紅。
兩路救兵既不旋踵而俱敗,
各城窮寇亦將解甲以出降。
賊首成擒,彼既掉餓虎乞憐之尾;
神武不殺,予亦體上帝孝生之心。
參將方政,內官馬騏,先給艦五百餘艘,既渡海而猶且魂飛魄散;
總兵王通,參政馬瑛,又給馬數千餘匹,已還國而益自股慄心驚。
彼既畏死貪生,而修好有誠;
予以全軍為上,而欲民之得息。
非惟謀計之極其深遠,
蓋亦古今之所未見聞。
社稷以之奠安,
山川以之改觀。
乾坤既否而復泰,
日月既晦而復明。
于以開萬世太平之基,
于以雪天地無窮之恥。
是由天地祖宗之靈有,
以默相陰佑而致然也!

於戲!
一戎大定,
迄成無兢之功;
四海永清,
誕布維新之誥。

播告遐邇,
咸使聞知。




Bình Ngô đại cáo

Đại thiên hành hoá hoàng thượng nhược viết:

Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư mạc tiên khử bạo.
Duy, ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.
Kê chư vãng cổ,
Quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.
Chí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư hoạ khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỷ hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu kiết di.
Khai kim trường tái mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
Thái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điển vật chức thuý cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thuỷ bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.

Dư:
Phấn tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dã.
Niệm thế thù khởi khả cộng đới,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Thống tâm tật thủ giả thuỳ thập dư niên,
Thường đảm ngoạ tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.
Đồ hồi chi chí,
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.

Nại dĩ:
Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiên hậu giả ký phạp kỳ nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.

Nhiên kỳ:
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
Do kỷ chi thành thậm ư chửng nịch.
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;
Dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

Tốt năng:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Trà Lân chi trúc phá hôi phi.
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Chấp nhất kỷ chi kiến dĩ giá hoạ ư tha nhân,
Tham nhất thì chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi noạ tướng, dĩ du cứu phần.
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,
Nản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.
Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế truỵ ư Chi Lăng chi dã;
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã An chi sơn.
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.
Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Viên tuyển tì hưu chi sĩ,
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Ẩm tượng nhi hà thuỷ càn,
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Thượng thư Hoàng Phúc diện phọc dĩ tựu cầm.
Cương thi tái Lượng Giang, Lượng Sơn chi đồ,
Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thuỷ.
Phong vân vị chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân sở bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Lãnh Câu chi huyết chử phiếu, giang thuỷ vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Lưỡng lộ cứu binh ký bất toàn chủng nhi câu bại,
Các thành cùng khấu diệc tướng giải giáp dĩ xuất hàng.
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quan.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu,
Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã.

Ô hô!
Nhất nhung đại định,
Hất thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh,
Đản bố duy tân chi cáo.

Bá cáo hà nhĩ,
Hàm sử văn tri.


*
Dưới đây là bài dịch “Bình Ngô Đại Cáo” ra quốc âm của Ngô Tất Tố.

Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.

Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.

Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.

Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?

Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,802
Posts: 14209
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Điển Tích

Postby bevanng » 17 Feb 2023

Bình Nguyên Quân


Tên là Triệu Thắng, con của vua Triệu Linh Vương là Triệu Võ, làm đại tướng nước Triệu, được vua Triệu Huệ Vương phong cho đất Bình Nguyên, nên gọi là Bình Nguyên Quân, Bình Nguyên Quân lại kết bạn với Mạnh Thường Quân ở nước Tề và Tín Lăng Quân ở nước Ngụy, thời Đông Châu liệt quốc. Bình Nguyên Quân rất chiêu hiền đãi sĩ, trong nhà nuôi đến ba ngàn tân khách, và cũng rất quý mến khách.
Bình Nguyên quân có một thiếp yêu cười nhạo một tân khách bị què. Người què tức giận đề nghị ông giết người thiếp. Bình Nguyên quân không nghe, vì vậy người què bỏ đi, những người khách khác cũng lũ lượt ra đi. Bình Nguyên quân ân hận, bèn chém đầu mỹ nhân đã cười chế nhạo người què, đoạn thân hành đến nhà người què tạ lỗi. Sau đó, các môn hạ dần dần trở lại.
Do tướng quốc nước Tần là Phạm Thư từng ở nước Ngụy, bị tướng Ngụy là Ngụy Tề làm nhục, nên Phạm Thư đe dọa nước Ngụy phải giao nộp Ngụy Tề, nếu không sẽ lập tức đánh Đại Lương. Ngụy Tề hoảng sợ, chạy sang nương nhờ Bình Nguyên quân.

Năm 265 TCN, Tần Chiêu Tương vương muốn giúp Phạm Thư báo thù, bèn viết thư cho Bình Nguyên quân mời tới nước Tần gặp mặt. Bình Nguyên quân bèn sang yết kiến vua Tần. Tần Chiêu Tương vương thuyết phục ông giao nộp Ngụy Tề, nhưng ông chối rằng Ngụy Tề không có ở nhà mình.
Vua Tần thấy không thuyết phục được ông bèn giữ ông ở lại nước Tần, đưa thư cho vua Triệu, bắt nộp Ngụy Tề để đổi lấy Bình Nguyên quân.
Vua Triệu nghe tin, bèn đem quân đến bao vây nhà ông, tìm bắt Ngụy Tề.
Ngu Khanh là tướng quốc nước Triệu muốn cứu Ngụy Tề liền bỏ áo mũ, từ quan đem Ngụy Tề trở về đất Ngụy cầu cứu với Tín lăng Quân, nhưng không thành, Ngụy Tề tự vận mà thác. Ngu Khanh bỏ vào núi làm ẩn sĩ. Tín lăng Quân cho người cắt lấy thù cấp Ngụy Tề đưa về Triệu, Triệu mang sang Tần chuộc được Bình Nguyên Quân về. Vì Ngu Khanh là Tướng quốc mà lại bỏ đi. Bình nguyên Quân lên thay Ngu Khanh làm tướng quốc nước Triệu.
Ta nhận thấy nghĩa cử đáng khen của Bình Nguyên Quân, thà bị bắt giữ ở Hàm Dương của Tần, chớ nhất quyết không chịu giao Ngụy Tề cho Tần để mất tín nghĩa.
Trong Đường thi có câu: “Bất tri can đảm hướng thùy thị ; Lệnh nhân khước ức Bình Nguyên Quân”, nghĩa là: Không biết ai có gan dạ như mình, khiến người nhớ đến Bình Nguyên Quân. Ý nói Bình Nguyên Quân không tham sinh úy tử, không chuộng phú quí, cốt giữ tròn tín nghĩa với bằng hữu. Trong “Kiều” đoạn Từ Hải gặp “Kiều” ở Châu Thai cũng có câu :

Từ rằng : Lời nói hữu tình,
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.


Năm 262 TCN, đất Thượng Đảng nước Hàn bị quân Tần đánh gấp sắp vỡ, nơi này bị cắt đứt đường liên hệ với nước Hàn mà chỉ còn tiếp giáp với nước Triệu. Tướng trấn thủ là Phùng Đình bèn viết thư xin mang đất này về theo nước Triệu để Triệu cứu ứng. Vua Triệu hỏi ý các đại thần, Bình Nguyên Quân khuyên nên thu nạp Phùng Đình và nhận đất Thượng Đảng trong khi Bình Dương quân Triệu Báo phản đối vì sẽ gây chiến với Tần. Cuối cùng vua Triệu theo lời ông.
Vì việc nhận đất Thượng Đảng, nước Triệu trở thành đối tượng tấn công của nước Tần. Năm 260 TCN, nước Tần đánh cho nước Triệu đại bại ở trận Trường Bình, giết 40 vạn quân Triệu. Năm 258 TCN, nước Tần đem quân bao vây Hàm Đan, định diệt nước Triệu. Triệu Hiếu Thành vương sai Bình Nguyên quân đi sứ nước Sở, cầu cứu vua Sở đem quân giúp. Bình Nguyên quân dự định nếu vua Sở không chịu giúp thì phải uy hiếp vua Sở uống máu ăn thề, mang theo 20 người môn hạ có đủ tài văn võ để cùng đi. Trong số đó, Mao Toại là người chưa từng chứng tỏ được tài năng khiến ông còn do dự, nhưng vì Mao Toại khẩn khoản xin ra sức giúp ông nên ông chấp nhận.
Khi đến nước Sở, ông bàn chuyện hợp tung rất lâu nhưng Sở Khảo Liệt vương vẫn chưa đồng ý. Mao Toại tiến lên dùng lời lẽ phân tích lợi hại của việc bỏ hợp tung sẽ không chỉ hại nước Triệu mà còn hại cho nước Sở. Sở Khảo Liệt vương sợ hãi, vội cùng uống máu ăn thề và điều quân đi cứu Triệu. Lúc trở về nước, Bình Nguyên quân tôn Mao Toại làm thượng khách.
Tuy đã liên kết hợp tung với nước Ngụy và nước Sở, nhưng do quân cứu viện chưa tới, nên thành Hàm Đan vô cùng nguy ngập. Bình Nguyên quân rất lo lắng. Nghe lời môn khách là Lý Đồng, Triệu Thắng sung người nhà và của cải trong nhà vào việc quân, dốc sức chia sẻ khó nhọc với quân dân. Kết quả có ba nghìn người xin làm cảm tử, theo Lý Đồng xông ra vào đánh úp, buộc quân Tần phải tạm lui. Do Lý Đồng chết trận, nên Bình Nguyên quân xin phong cho người cha Đồng làm Lý Hầu.
Thành Hàm Đan bị vây ngày một nguy khốn, Bình Nguyên quân phải sai vợ là chị của Ngụy An Ly vương đến cầu cứu nước Ngụy. Ngụy An Ly vương bị nước Tần uy hiếp nên mặc dù đã sai Tấn Bỉ đến cứu nhưng vẫn lệnh cho quân án binh bất động, rồi phái tướng Tân Viên Diễn đến Hàm Đan, nói với Bình Nguyên quân tôn vua Tần làm đế để thuyết phục nước Tần lui binh. Bình Nguyên quân không biết xử trí thế nào. Lúc đó có người học trò là Lỗ Trọng Liên đến phủ Bình Nguyên quân, thỉnh cầu tranh biện với Tân Viên Diễn. Kết quả, Lỗ Trọng Liên thuyết phục được Tân Viên và Bình Nguyên quân không tôn vua Tần làm đế nữa.
Cùng lúc đó, em vua Ngụy là Tín Lăng quân Ngụy Vô Kị trộm được binh phù, bèn dẫn quân sang cứu Triệu, đánh lui quân Tần, giải nguy cho Hàm Đan.
Năm 251 TCN, Bình Nguyên quân qua đời ở nước Triệu. Con cháu ông nối dõi đời đời mãi khi Tần diệt Triệu mới hết.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,802
Posts: 14209
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Điển Tích

Postby bevanng » 25 Feb 2023

Bột Đề


Vì mưu ly gián của nàng Ly Cơ để mong lập con mình là Hề Tề lên ngôi Thế Tử, vua Tấn Hiến Công làm cho con trưởng là Thế Tử Thân Sinh phải thắt cổ tự tử, rồi còn sai Bột Đề là viên quan hoạn sang đất Bồ, (là nơi Công Tử Trùng Nhĩ bị đày ở đó) bắt Trùng Nhĩ về giết để trừ hậu hoạn. Nhưng Bột Đề đem quân vây nhà thì Trùng Nhĩ chạy ra sau vườn trốn, Bột Đề chỉ chém được vạt áo đứt, còn Trùng Nhĩ chạy thoát. Bột Đề đành đem vạt áo về trình lên Tấn Hiến Công. Sau khi Tấn Hiến Công mất, Hề Tề lên nối ngôi không được bao lâu thì bị giết, em là Trắc Tử cũng bị giết luôn. Quần thần mời Công Tử Trùng Nhĩ không chịu về, mới rước Công Tử Di Ngô là em một cha khác mẹ với Trùng Nhĩ về lên ngôi, tức là Tấn Huệ Công. Huệ Công lại sợ Trùng Nhĩ về giành ngôi, sai Bột Đề đem một trăm nén vàng mướn người giết chết Trùng Nhĩ để tuyệt trừ hậu hoạn. Vua nước Địch hay biết tin, liền cho quân sĩ tra xét nghiêm nhặt, phần Bột Đề là quan hoạn nên dễ tra xét, do dó Bột Đề không thể ám hại Công Tử Trùng Nhĩ được, vua Tấn dành phải bỏ qua. Đến khi Tấn Huệ Công chết, con là Tấn Hoài Công lên ngôi (Tấn Hoài Công tên là Ngữ). Đến sau Trùng Nhĩ về, đem quân đuổi Tấn Hoài Công đi, lên ngôi vua, tức là Tấn Văn Công. Tấn Hoài Công chạy ra đất Cao Lương, Trùng Nhĩ cho người ra giết chết. Bột Đề theo phò Hoài Công đành bơ vơ, không nơi nương tựa, phải trở về nước Tấn. Bấy giờ bọn tôi thần cũ của Di Ngô tức là Tấn Huệ Công là Lã Di Xanh và Khước Nhuế mưu định đốt cung, làm phản để giết Trùng Nhĩ, lại rủ Bột Đề. Bột Đề nghĩ rằng Trùng Nhĩ là người hiền, về sửa sang việc nước mới được yên, so sánh với cha là Hiến Công, với em là Huệ Công và với cháu là Hoài Công thì đức độ hơn nhiều, nước Tấn sẽ được cường thịnh nhờ Trùng Nhĩ. Vả lại, trải thờ ba đời vua, nay ba vua đều chết hết, ta không thể làm một việc phản nghịch ấy được. Liền tìm cách xin đến gặp Trùng Nhĩ, nhưng Trùng Nhĩ có ý căm thù Bột Đề ngày trước hai lần đã toan giết mình nên không chịu tiếp, còn cho nội thị mắng vào mặt đuổi đi. Bột Đề cả cười đáp lại rằng: Chúa Công đã hơn mười chín năm lưu lạc mà vẫn còn chưa kinh nghiệm. Hiến Công là cha mà còn có thể giết con, Huệ Công là em mà còn muốn giết anh là Chúa Công, huống gì tên Bột Đề chỉ là kẻ bề tôi, chỉ biết tuân theo mệnh vua, bấy giờ đâu dám biết đến Chúa Công là ai. Ngày trước Tề Hoàn Công bị Quản Di Ngô bênh vực chủ là Công Tử Củ mà bắn vào vòng đai suýt chết, thế mà Hoàn Công vẫn tin dùng Di Ngô, tôn Di Ngô lên là Trọng Phụ của nước Tề, nhờ đó mới lập nên nghiệp Bá Vương. Nay Chúa Công vì mối hiềm khích nhỏ mà bỏ đi việc lớn, tôi e rằng sau khi tôi rời khỏi nơi đây, Chúa Công sẽ mang tai vạ lớn. Tấn Văn Công nghe qua sực tĩnh ngộ, liền cho vời Bột Đề vào. Nhờ đó mà âm mưu của bọn phản nghịch La Di Sanh và Khước Nhuế bị phát giác. Trùng Nhĩ khỏi chết, và Bột Đề lại được trọng dụng. Ta nhận thấy Bột Đề đã biết đặt quyền lợi của quốc gia trên mọi quyền lợi cá nhân, và hiểu biết Tấn Văn Công là người đem lại cho dân chúng hạnh phúc, ấm no, nên đã không ngần ngại đem mình vào chỗ nguy hiểm để thuyết phục Tấn Văn Công Trùng Nhĩ, và cứu Văn Công khỏi chết, tránh cho nước Tấn khỏi họa diệt vong, nhờ đó Tấn Văn Công lập nên được Bá nghiệp, trong hàng Ngũ Bá thời Chiến quốc vậy.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,802
Posts: 14209
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Điển Tích

Postby bevanng » 06 Apr 2023

Oan hơn cả Đậu Nga


“Oan Đậu Nga” là vở ca kịch nổi tiếng của nhà văn Quan Hán Khanh đời nhà Nguyên, tác phẩm được sáng tác dựa trên câu chuyện oan khuất “Đông Hải Hiếu Phụ” trong “Liệt Nữ truyện”. Truyện kể Đậu Nga bị bọn vô lại hãm hại, lại bị thái thú Đào Ngột phán tội chém đầu một cách oan uổng. Đây là một câu chuyện chân thật xảy ra vào triều Nguyên, bởi ảnh hưởng chấn động vào thời bấy giờ, vậy nên đã được ghi vào trong “Liệt Nữ truyện” giống như sử ký vậy.
Nhân vật chủ yếu trong vở ca kịch là một người con gái nhà nghèo vùng Sở Châu, tên là Đậu Nga. Mẹ nàng mất khi nàng còn nhỏ, cha nàng là Đậu Thiên Chương không có tiền trả nợ, lại vội lên kinh dự thi, không có tiền lộ phí, liền bán nàng cho 1 bà góa là Thái Bà làm con dâu nhỏ (tức là con dâu mua từ lúc nhỏ, khi lớn lên phải làm vợ con trai người mua).
Đậu Nga tới nhà họ Thái chưa được 2 năm, thì cậu con trai họ Thái bị bệnh mất, chỉ còn nàng và bà góa họ Thái sống nương tựa vào nhau. Trương Lư Nhi là 1 tên lưu manh ở Sở Châu, cùng với bố là Trương Lão Nhi thấy nhà họ Thái chỉ có 2 người phụ nữ, liền đến ở lỳ đó, rồi ép lão bà lấy Trương Lão Nhi. Thái Bà thế cô, đành ưng chịu. Trương Lư Nhi lại ép Đậu Nga thành thân với hắn. Đậu Nga cương quyết cự tuyệt và chửi rủa hắn thậm tệ. Trương Lư Nhi căm tức, liền nghĩ kế trả thù.
Mấy hôm sau, Thái Bà bị ốm, sai Đậu Nga nấu cháo. Trương Lưu Nhi lén bỏ thuốc độc vào trong bát cháo, rắp tâm giết chết Thái Bà rồi sẽ ép buộc Đậu Nga. Đậu Nga bưng cháo cho Thái Bà, bỗng Thái Bà thấy buồn nôn, không muốn ăn nữa và chuyển bát cháo cho Trương Lão Nhi ăn. Trương Lão Nhi trúng độc, lăn lộn dưới đất rồi tắt thở.
Trương Lư Nhi đã đổ tội đầu độc cho Đậu Nga, bắt nàng giải lên quan cai trị Sở Châu. Tri phủ Sở Châu là Đào Ngột, một viên quan nổi tiếng tham nhũng, nhận tiền đút lót của Trương Lư Nhi, bắt Đậu Nga ra thẩm vấn, ép nàng nhận tội đầu độc. Đậu Nga bị đánh đập chết đi sống lại, nhất định không chịu nhận tội. Đào Ngột biết Đậu Nga rất hiếu thuận với Thái Bà, liền đem Thái Bà ra đánh đập trước mắt Đậu Nga. Đậu Nga thương Thái Bà tuổi già, không chịu nổi cực hình, đành chịu nỗi oan mà nhận tội. Tên tham quan Đào Ngột đã đã dùng mọi thủ đoạn ép được cung, liền khép nàng vào tội chết, giải nàng ra pháp trường xử tử.
Khi Đậu Nga hàm oan bị giải đến pháp trường, trước lúc hành hình, tên tham quan hỏi Đậu Nga rằng cô còn có lời nào muốn nói nữa không?
Đậu Nga trả lời: “Xin hãy ban cho tôi một mảnh lụa trắng dài ba thước treo lên một cây sào cao trăm thước, nếu như tôi bị oan, một giọt máu nóng cũng sẽ không rơi xuống đất mà sẽ bắn lên trên dải lụa trắng kia; nếu như tôi bị oan, đầu rơi xuống đất, trời liền sẽ có tuyết rơi lả tả; nếu như tôi bị oan, sau khi tôi chết trời sẽ hạn hán trong suốt 3 năm liền”.
Tham quan đó lắc đầu lia lịa, chế giễu: “Thật là ngu muội! Hoang đường!”, lòng nghĩ thầm: “Mùa hè Tháng 6 oi bức như thế này sao lại có tuyết rơi được chứ? Xưa nay, người ta chỉ thấy máu chảy xuống đất, ta lại muốn xem thử máu sao lại có thể bay lên trên được?”
Thế là ông lệnh cho người ta lấy một dải lụa trắng dài ba thước treo lên cây sào cao.
Tên đao phủ vừa vung đao xuống, một dòng máu nóng của Đậu Nga giống như kỳ tích đã bắn lên dải lụa trắng treo ở giữa không trung, ngay cả một giọt cũng không rơi xuống đất. Khi đầu của Đậu Nga bị chặt đứt, quả nhiên gió lớn nổi lên, tuyết bay khắp trời.
Trước đó không lâu, mọi người còn ướt đẫm mồ hôi, vậy mà giờ đây chỉ trong nháy mắt, người nào người nấy ôm đầu rụt cổ chạy về nhà, miệng không ngừng nói là “chuyện lạ, chuyện lạ”.
Sau khi Đậu Nga chết, quả thật là trời đã hạn hán 3 năm, không trồng trọt thu hoạch được gì. Người dân vùng đó đều biết rằng ông trời đang lên tiếng bất bình thay cho Đậu Nga vậy.
Mấy năm sau, phụ thân của Đậu Nga thi đậu bảng vàng, trở thành quan lớn. Khi trở về quê nhà, ông đã phúc thẩm lại vụ án của Đậu Nga, xử trảm Trương Lư Nhi và tên tham quan, rửa sạch nỗi oan khuất cho con gái. Bà con trong làng lũ lượt kéo đến viếng thăm phụ thân nàng, nói: “Từ đầu chúng tôi đã biết Đậu Nga bị oan, chỉ tiếc là chúng tôi đều sợ quyền thế của tên tham quan đó, nên chỉ dám hận chứ không dám nói ra, nhưng mà chúng tôi lại không hề hãm hại Đậu Nga, cớ sao lại phải chịu nạn hạn hán trong suốt 3 năm này chứ?”
Phụ thân của Đậu Nga đáp: “Các ông đã biết rõ Đậu Nga là bị oan, vậy mà lại không dám nói một lời công đạo, đó gọi là bất nghĩa. Còn có những người tin tưởng tham quan, cho rằng Đậu Nga thật sự là hung thủ giết người, rồi miệt thị những người lương thiện, đó gọi là bất nhân. Trời cao có mắt, không có tai bay vạ gió, thiên tai nhân họa chính là để trừng trị những kẻ bất nhân bất nghĩa vậy!”
Câu chuyện này muốn nói với người sau rằng: Con người sống ở thế gian nhất định cần phải phân rõ thị phi, giữ vững chính nghĩa, không đứng về phe của tà ác, như vậy mới có được sự bảo hộ của ông trời. Khi tai nạn ập đến, mới có thể không bị liên lụy.
Vì vậy rất nhiều lúc cảm thấy một số sự việc phát sinh vốn không hề có liên quan gì với bản thân mình, nhưng khi những sự việc đó xuất hiện, phản ứng khi bạn nghe thấy, nhìn thấy, chọn lựa trong tư tưởng, lại có thể phân chia ra chiều hướng trong lòng mỗi người. Đó cũng chính là sự lựa chọn giữa thiện và ác.
Nếu như gặp phải một sự kiện trọng đại có thể mang đến thiên tai đại kiếp, phúc họa của một người có thể chỉ dựa vào một niệm trong tâm ngay lúc đó mà quyết định. Sự sai khác chỉ một niệm sẽ mang đến đường đời khác biệt tựa như trời với đất vậy.
Thế nào là lương thiện? Có người nói rằng bản thân tôi bình thường cũng hay lấy việc giúp người làm niềm vui. Họ cho rằng đây chính là bao quát hết toàn bộ sự lương thiện rồi. Tuy nhiên, khi đứng trước thị phi, thiện ác, họ lại không phân biệt được, liền không có cách nào để đưa ra sự lựa chọn chính xác, thậm chí còn biện hộ rằng thân mình còn lo chưa xong thì sao quản được chuyện thế gian.
Trên thực tế, để thực sự là một người thiện lương, bạn còn phải tích lũy cho mình cả dũng khí, chính nghĩa và lương tri. Bởi những thứ ấy mới khiến bạn đứng trước quyền thế và cái ác dậy trời, vẫn có thể nói lên lời công đạo để bênh vực người gặp nạn.
Làm việc thiện đâu phải chỉ đơn giản là bố thí chút công đức và vài đồng bạc là xong, nếu nó không xuất phát từ cái tâm chân thành và sự thiện lương chân chính, thì tất cả hóa thành không. Làm việc thiện cũng cần phải phó xuất, lòng chân thành sẽ cảm động trời cao.
Cổ nhân giảng thiên nhân hợp nhất, tức là bản tính con người nguyên lai là giống với thiên thể vũ trụ. Con người ở trong dòng sông dài đằng đẵng của năm tháng, ở trong danh lợi tình của thế tục, mà dần dần lạc mất bản thân và quên đi bản tính tiên thiên, thậm chí xa rời nguồn gốc sinh mệnh của mình.
Vậy bạn chọn là một sinh mệnh quên mất nguồn cội, chỉ biết sống vì bản thân để rồi bị hủy diệt cùng lực lượng tà ác, hay chọn làm một sinh mệnh vĩ đại hòa mình vào vũ trụ vốn chỉ dung chứa sự thiện lương. Tóm lại tương lai đều là do bạn lựa chọn vậy.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,802
Posts: 14209
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Điển Tích

Postby bevanng » 30 Jan 2024

Bình thủy tương phùng


Chữ “Bình” ở đây tức là bèo. Ý của câu thành ngữ này là chỉ bèo trôi dạt trên mặt nước ngẫu nhiên dồn lại với nhau.
Hiện nay, người ta vẫn thường dùng câu thành ngữ này để ví sự gặp nhau ngẫu nhiên giữa người với người.

Câu thành ngữ này xuất xứ từ “Vương Tử An tập – Đằng Vương Các tự”.
Vương Bột tự Tử An, người đất Long Môn. Sáu tuổi đã biết làm văn. Mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần.
Vương có thói quen, mỗi khi làm văn, mài mực sửa soạn nghiên bút rồi nằm đắp chăn ngủ. Khi tỉnh dậy, cầm ngay bút viết. Vương nổi tiếng là một thi sĩ cao danh thời Sơ Đường (618-713).
Con của vua Cao Tông nhà Đường bấy giờ làm Thái Sử ở Hồng Châu, được phong là Đằng Vương, có dựng một cái gác bên sông Tầm Dương gọi là Đằng Vương các. Lúc Diêm Bá Dư ra giữ chức Đô Đốc Hàng Châu, đặt tiệc tại gác Đằng Vương để thết tân khách. Muốn khoe tài chàng rể, bảo làm trước một bài tự, rồi mời tất cả các nhà quyền quý, các mặc khách tao nhân xa gần đến dự; và yêu cầu mỗi người làm một bài tự ngay bữa tiệc.
Vương Bột lúc bấy giờ, tuổi vừa 15, 16. Hay tin ấy, nhưng vì đường xá xa xôi có mấy trăm dặm, không đến họp được, lấy làm tiếc. Một ông già khuyên chàng cứ sửa soạn thuyền buồm, tự nhiên sẽ có gió thổi. Quả nhiên đêm đó có gió lớn. Vương cho thuyền khởi hành, và hôm sau tới Đằng Vương các vừa kịp lúc vào tiệc.
Thấy Vương Bột, viên Đô Đốc họ Diêm khinh là con nít, miễn cưỡng cấp giấy bút. Nhưng cho người đứng bên cạnh Vương, hễ Vương viết được câu nào thì chép lại cho ông xem.
Mới đọc hàng đầu, họ Diêm đã ngạc nhiên vì lời già giặn. Đến câu:

Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thuỷ cộng tràng thiên nhất sắc


Nghĩa:

Ráng chiều với cò lẻ cùng bay,
Nước thu cùng trời dài một sắc

thì ông vô cùng khâm phục.
Bài của họ Vương đặc sắc hơn tất cả. Từ đó, danh càng vang dậy khắp nơi.
Bài phú Đằng Vương các viết theo thể biền ngẫu, dùng nhiều chữ cầu kỳ, nhiều điển khó hiểu nhưng lời thì cực đẹp nên rất khó dịch. Trong bài, Vương Bột nhắc qua địa lý và nhân vật ở quận, nơi xây gác Đằng Vương, rồi tả chủ khách trong tiệc, phong cảnh chung quanh khi ngồi trong gác trông ra, sau cùng kể cảm tưởng của chính mình.
Cuối bài thơ, có 8 câu tuyệt diệu, nhất là 4 câu cuối:

Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di, không độ thu?
Các trung đế tử kim hà tại?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.


Nghĩa:

Đầm chiếu mây bay, trời lửng lơ,
Sao dời vật đổi, mấy thu rồi.
Con vua trong gác nào đâu nhỉ?
Dòng nước ngoài hiên vẫn tự trôi.


Nhưng người có tài như thế mà mạng yểu. Nhân khi đi thăm cha làm quan ở Giao Chỉ, Vương bị đắm thuyền, chết ở giữa biển giữa 29 xuân xanh.
Tương truyền rằng hai câu thơ:

Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thuỷ cộng tràng thiên nhất sắc.

tuyệt diệu như thế mà có người cho Vương Bột còn dốt, nhưng không chỉ dốt chỗ nào. Vì thế khi chết, hồn còn uất ức nên trong đêm khuya thanh vắng thường hiện hình trên bãi bể, níu áo những văn nhân sĩ tử qua đường, miệng ngâm nga hai câu thơ trên và hỏi dốt chỗ nào, xin chỉ giúp. Nhưng ai nấy đều khen hay. Hồn Vương không bằng lòng, cho rằng sĩ tử kia còn dốt, thi khoa này không thể đậu. Quả thật như thế.
Rồi, cũng từ đó, giọng ngâm hai câu thơ kia vẫn còn văng vẳng bi ai theo hình bóng họ Vương thơ thẩn, dật dờ trên bãi biển.
Nhưng một hôm có một văn nhân đi ngang qua đấy, hồn Vương hiện hình níu lại hỏi, thì chàng văn nhân ấy cười bảo:
- Hai câu thơ ấy không phải sai nhưng nhà ngươi còn dốt thật. Đã bao năm có tiếng là tứ kiệt Sơ Đường mà không nhận biết được cái dốt của mình trong hai câu thơ ấy ư?
Nói xong dứt áo ra đi. Vương tha thiết yêu cầu giải thích. Khách không phụ lòng, nên bảo:
- Hai câu thơ thừa chữ “dữ” và chữ “cộng”. Nếu bỏ hai chữ thì thật tuyệt, vừa gọn vừa thanh thoát, lại nhất khí:
Lạc hà cô vụ tề phi,
Thu thuỷ tràng thiên nhất sắc.
Vương Bột nhận ra, quả còn dốt thật, mới bái tạ lãnh lời chỉ giáo.
Từ đó, trong đêm khuya thanh vắng, trên bãi biển không còn hình bóng của nhà thơ tài danh trẻ tuổi hiện ra nữạ Và giọng ngâm hai câu thơ bất hủ bi ai, não ruột kia cũng chìm mất trong không gian cao rộng, mịt mờ. Đây là một câu chuyện hoang đường.
Do câu chuyện gió đưa thuyền Vương Bột đến Đằng Vương các làm cho Vương nổi tiếng tài danh, nên cổ thi có câu: “Thời lai, phong tống Đằng Vương các” (Thời tới thì gió đưa đến Đằng Vương) để chỉ sự may mắn của kẻ gặp thời. Những từ ngữ: “duyên Đằng”, “gió đưa Đằng các” đều có ý nghĩa như thế.
Trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du có câu: “Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa” là do điển tích trên.

滕王閣

滕王高閣臨江渚,
佩玉鳴鸞罷歌舞。
畫棟朝飛南浦雲,
珠簾暮捲西山雨。
閒雲潭影日悠悠,
物換星移幾度秋。
閣中帝子今何在,
檻外長江空自流。


Đằng Vương các

Đằng Vương cao các lâm giang chử,
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.
Hoạ đống triêu phi Nam phố vân,
Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
Các trung đế tử kim hà tại,
Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu.


Dịch nghĩa:

Gác Đằng Vương cao ngất dựa bên bãi sông,
Đeo ngọc reo chuông thôi múa hát.
Cột vẽ mây bến Nam bay lúc sáng sớm,
Rèm châu cuốn buổi chiều thấy mưa núi Tây.
Mây lững lờ ngày ngày vẫn in bóng trên đầm,
Vật đổi sao dời trải đã bao thu.
Con vua ở trong gác nay ở chốn nào?
Ngoài hiên sông Trường Giang cứ chảy mãi.

Trần Trọng San dịch:

Bên sông đây gác Đằng Vương
Múa ca đã hết, ngọc vàng nào ai?
Cột rồng Nam Phố mây bay
Rèm châu mưa cuốn ngàn Tây sớm chiều.
In đầm, mây vẩn vơ trôi
Tang thương vật đổi, sao dời mấy thâu
Đằng Vương trong gác giờ đâu?
Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài.


Nam Trân dịch:

Gác Đằng cao ngất bãi sông thu
Ngọc muá vàng reo nay thấy đâu?
Nam phố mây mai quanh nóc vẽ
Tây sơn mưa tối, cuốn rèm châu
Đầm nước mây vờn ngày tháng trôi
Mấy phen vật đổi với sao dời
Đằng vương thuở trước giờ đâu tá?
Sông lớn ngoài hiên luống chảy hoài.


Hải Đà dịch:

Bến sông cao ngất gác Đằng Vương
Đai ngọc chuông kêu múa hát ngừng
Cột vẽ mây Nam vờn sáng sớm
Mưa Tây rèm cuốn thấy chiều buông
Ngày vẫn trên đầm in bóng mây
Sao dời vật đổi mấy thu đây
Con vua trong gác nơi nào ở?
Ngoài cửa Trường Giang nước chảy dài.


Nguyễn Lãm Thắng dịch:

Gác Đằng cao ngất bãi sông
Còn đâu tiếng ngọc, nhạc rung rộn ràng?
Mây mai vờn nóc phố Nam
Rèm châu chiều cuốn thấy ngàn Tây mưa
Đầm in mây lửng, ngày đưa
Sao dời vật đổi mấy mùa vèo trôi
Đằng Vương giờ khuất xa rồi!
Trường giang nước cứ chảy xuôi bên thềm.


Cao Nguyên dịch:

Bên sông gác Đằng Vương cao ngất,
Đeo ngọc vàng reo ngừng múa hát.
Cột vẽ mây Nam Phố sớm bay,
Rèm cuốn mưa Tây Sơn chiều tạt.
Đầm in bóng mây, ngày chậm trôi
Sao dời vật đổi mấy thu rồi.
Trong gác con vua giờ đâu nhỉ?
Ngoài hiên, sông vẫn chảy đấy thôi.


mailing dịch:

Gác Đằng vương bên sông cao nóc,
Dứt múa ca, tiếng ngọc phôi phai.
Cột hoa Nam Phố mây mai,
Rèm châu chiều cuốn, non đoài hạt rơi.
Trải mấy thu, sao dời vật đổi,
Mây ánh đầm, ngày dõi lửng lơ.
Gác đây, đế tử đâu giờ ?
Trường Giang cứ chảy hững hờ ngoài hiên.


Image
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,802
Posts: 14209
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Điển Tích

Postby bevanng » 02 Apr 2024

Cấm nhược hàn thiền 噤若寒蝉
As silent as a cicada in winter.


Chữ “Cấm” ở đây là chỉ ngậm miệng không nói; Còn “Hàn thiền” là chỉ con ve sầu trong trời rét.
Rất nhiều ví như câu噤若寒蝉cấm nhược hàn thiền (câm bặt như ve sầu mùa đông) thành ngữ tiếng Trung xuất xứ từ những điển tích điển cố phản ánh văn hóa Trung Hoa, xuất xứ từ Đỗ Mật truyện trong sách Hậu Hán Thư《后汉书.杜密传》, phản ánh chế độ phong kiến cực kỳ hà khắc thời bấy giờ khiến giới quan lại không dám lên tiếng như con ve sầu ngày đông. Người Việt dùng những hình ảnh gần gũi dễ hiểu hơn để so sánh, đó là Im như thóc; Câm như hến, Thủ khẩu như bình...
Đó là một cách diễn đạt hay! Nó sử dụng một lối so sánh, so sánh một cái gì đó im lặng với một con ve sầu vào mùa đông.
Đây là lý do tại sao nó rất hiệu quả:
Ve sầu được biết đến với tiếng kêu lớn trong những tháng mùa hè. Vì vậy, ve sầu vào mùa đông hoàn toàn im lặng – trái ngược hoàn toàn với hành vi thông thường của nó.
Bản thân mùa đông thường gắn liền với sự yên tĩnh và tĩnh lặng.
Sự kết hợp này tạo nên một hình ảnh sống động về sự im lặng sâu sắc.
Câu này có nghĩa là “im lặng như con ve sầu mùa đông” hoặc “im như thóc”. Câu này thường được dùng để miêu tả tình trạng im lặng của một người, mặc dầu muốn nói nhưng không dám nói ra sợ không khéo thì liên lụy đến mình và cả giòng họ.
Cách giải thích phù hợp với ý tưởng rằng đôi khi im lặng là một hình thức tự bảo vệ. Giống như ve sầu im lặng trong suốt mùa đông, các cá nhân có thể chọn cách giữ im lặng hoặc bất đồng quan điểm khi đối mặt với các chế độ áp bức hoặc chính quyền đầy quyền lực. Nỗi sợ hãi về hậu quả có thể khiến mọi người áp dụng cách tiếp cận thận trọng, giống như sự im lặng của những loài côn trùng mùa đông đó.
Trong bối cảnh này, câu tục ngữ như một lời nhắc nhở hãy bước đi cẩn thận, bảo vệ bản thân bằng cách giữ im lặng khi cần thiết. Nó thừa nhận sự cân bằng tinh tế giữa việc bày tỏ quan điểm của một người và bảo vệ sự an toàn cá nhân. Giống như con ve sầu chờ đợi những ngày ấm áp hơn, một số giọng nói vẫn nằm im, chờ khí hậu thuận lợi hơn xuất hiện.
Thí dụ:
Tôi hiểu đạo lý họa từ miệng mà ra nên mới Cấm nhược hàn thiền.
我就是了解祸从口出的道理,所以才噤若寒蝉。
Thường ngày ba hoa khoác lác, nhưng khi cần họ nói thì lại Cấm nhược hàn thiền.
平曰高谈阔论,但该他们说话时,却又噤若寒蝉。

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ “Hậu Hán thư – Truyện Đỗ Mật”.
Thời Đông Hán có một viên quan thanh liêm và tài ba tên là Đỗ Mật, ông từng đảm nhiệm chức Thái thú quận và Thượng thư lệnh. Ông chấp pháp nghiêm minh, căm ghét tội ác, từng đấu tranh với lũ hoạn quan, đối với những hoạn quan hay con nhà quyền quý phạm tội là ông cương quyết điều tra xử lý, không hề dung tha. Nhưng ông lại rất quý mến người có tài và luôn tìm cách giúp họ làm nên sự nghiệp.
Một hôm, khi thị sát ở huyện Cao Mật, ông thấy có một viên quan làng tên là Trịnh Huyền rất có học thức, bèn đề bạt ông ta lên nhậm chức ở trên quận. Ít lâu sau, ông lại cử Trịnh Huyền đi chuyên tu ở Thái Học. Còn Trịnh Huyền quả không phụ lòng ông, sau đó trở thành nhà Kinh Học rất nổi tiếng thời Đông Hán.
Về sau, Đỗ Mật từ quan về quê, những vẫn rất quan tâm tới tình hình chính sự, ông thường bàn luận với các quan chức địa phương về công việc nhà nước, tiến cử hiền sĩ và vạch trần người xấu việc xấu.
Bấy giờ, bạn của Đỗ Mật là Lưu Thắng cũng cáo lão về quê. Ông ta sùng tín triết học xử thế trong sạch vẹn thân, hàng ngày kín cổng cao tường, không bàn luận chính sự, ai tốt xấu mặc ai. Có người cho rằng, ông ta làm như vậy là một sự biểu hiện cao thượng.
Một hôm, Thái thú Vương Dục khen ngợi Lưu Thắng là một sĩ tử cao thượng. Nhưng Đỗ Mật không tán thành với nhận xét này. Ông nói: “Lưu Thắng địa vị cao, được đối đãi vào hạng thượng khách. Nhưng ông ta biết có người tài mà không tiến cử, nghe tin có người làm việc xấu, mà không dám nói một câu, thì có khác gì Cấm nhược hàn thiền, con ve sầu trong ngày trời lạnh không biết kêu, ông ta thực ra là một kẻ có tội”.
Hiện nay, người ta vẫn thường dùng câu thành ngữ “Cấm nhược hàn thiền” để chỉ những người sống yên phận im hơi lặng tiếng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,802
Posts: 14209
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Previous

Return to Hoa Thơm Cỏ Lạ



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 3 guests