Phù bạch huyết
Khi có nghẽn mạch bạch huyết ở túi nhũ chấp, bộ phận quan trọng này của hệ bạch huyết không còn có thể loại bỏ protein hư hỏng và có hại cho tế bào theo đúng cách được nữa. (Hãy nhớ rằng, cơ thể phải loại bỏ 30 triệu tế bào già mỗi ngày). Thế là sinh ra phù bạch huyết. Bạn có thể sờ hoặc mát xa vùng rốn trong khi nằm ngửa để cảm thấy bất kỳ dấu hiệu phù bạch huyết nào như các nốt u mềm hay cứng. Những nốt u này có khi to bằng nắm tay. Một số người miêu tả chúng như những
viên đá trong bụng.
Những viên đá này là nguyên nhân chính gây ra đau vùng lưng giữa và lưng dưới cũng như chướng bụng, tăng cân quanh vùng eo. Thực ra, chúng còn đứng đằng sau hầu hết các triệu chứng bệnh tật, trong đó có bệnh tim, tiểu đường và ung thư. Gần như tất cả trong số hàng trăm bệnh nhân ung thư tôi từng thăm khám đều bị phù bạch huyết, chướng bụng hay đầy bụng ở mức độ nào đó. Bụng phình lên thường đi kèm với phù mặt (mặt phị ra), cằm hai ngấn, mắt húp và cổ to lên - những dấu hiệu của nghẽn mạch bạch huyết trầm trọng.
Nhiều người bị
béo bụng nghĩ tăng vòng eo chỉ là một sự phiền toái vô hại hoặc là dấu hiệu lão hóa tự nhiên. Họ cho rằng ngày nay ai mà chẳng có bụng bự, và đó hẳn là chuyện bình thường. Họ không nhận ra là mình đang ôm một quả bom sống hẹn giờ, mà một ngày nào đó có thể nổ tung và làm tổn thương những bộ phận quan trọng của cơ thể. Ung thư hầu như luôn là chỉ dấu cho sự tồn tại của một quả bom hẹn giờ như thế.
Tám mươi phần trăm hệ bạch huyết được bố trí gần, và đi liền với đường ruột, do đó khu vực này trở thành trung tâm lớn nhất của hoạt động miễn dịch. Chẳng phải ngẫu nhiên mà thế. Trên thực tế, chính đường ruột là nơi các tác nhân gây bệnh bị tấn công hoặc được sinh ra. Bất cứ hiện tượng phù bạch huyết nào và những kiểu tắc nghẽn khác trong bộ phận quan trọng này của hệ bạch huyết cũng là do quá tải chất thải độc hại của đường ruột và có thể dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng tiềm ẩn ở nơi khác trong cơ thể.
Bất cứ nơi nào một ống bạch huyết bị nghẽn, thì cách nơi ấy một khoảng nào đó sẽ có một chỗ tụ ứ bạch huyết. Hệ quả là, các hạch bạch huyết dọc theo ống bị tắc không thể nào trung hòa hoặc thải độc những thứ sau đây được nữa: các thực bào chết và còn sống, các vi sinh vật được đưa vào, các tế bào mô hư hỏng, các tế bào bị tổn hại do bệnh tật, các sản phẩm lên men, thuốc trừ sâu trong thức ăn, các phần tử độc hại bị hít vào, các tế bào từ những khối u ác tính và nhiều triệu tế bào ung thư được sinh ra mỗi ngày ở mỗi người khỏe mạnh.
Việc phá hủy dở dang những thứ này có thể khiến các hạch bạch huyết bị viêm, phì đại hoặc bị nghẽn máu. Thêm vào đó, các chất ô nhiễm có thể đi vào đường máu, gây ra ngộ độc do nhiễm khuẩn hoặc các bệnh cấp tính. Dẫu vậy, trong hầu hết các trường hợp, nghẽn mạch bạch huyết xảy ra từ từ qua nhiều năm mà không có bất cứ triệu chứng nghiêm trọng nào ngoài chướng bụng, phù bàn tay, cánh tay, bàn chân, mắt cá chân hoặc mặt và mắt húp lên. Người ta thường gọi đây là hiện tượng ứ đọng dịch, một báo hiệu quan trọng về bệnh mạn tính. Nhiều bệnh nhân ung thư bị một hoặc vài triệu chứng trong số này từ khá lâu trước khi được chẩn đoán là bị ung thư.
Hệ bạch huyết tắc nghẽn kéo dài thường dẫn đến đột biến tế bào. Hầu hết mọi ung thư đều do tắc nghẽn mạn tính trong túi nhũ chấp. Cuối cùng thì, ống ngực, nơi thoát dịch cho túi nhũ chấp và đưa bạch huyết lên cổ vào ống bạch huyết trái, đã bị quá tải bởi các chất độc hại liên tục dồn vào và bị ứ nghẽn ở đó. Ống ngực kết nối với nhiều ống bạch huyết khác (Xem hình 2 và 3), những ống bạch huyết này xả sạch chất thải của chúng vào
kênh thải ở lồng ngực này.
Vì ống ngực phải loại bỏ 85% chất thải tế bào sinh ra hằng ngày của cơ thể và những chất độc nặng tiềm ẩn khác, chỉ cần tắc nghẽn một chỗ là có thể khiến chất thải bị đẩy ngược về các bộ phận khác, xa hơn của cơ thể, gây sưng phù. Sưng phù đặc trưng cho phù nề bạch huyết cục bộ, thường thấy ở các mắt cá chân.
Khi chất thải trao đổi chất sinh ra hằng ngày và các mảnh vỡ tế bào vẫn bị kẹt trong một khu vực của cơ thể trong một khoảng thời gian, thì các triệu chứng của bệnh bắt đầu xuất hiện. Chất thải bị kẹt có thể tiếp tục kích hoạt cho sự phát triển tế bào bất thường. Dưới đây chỉ là danh sách của một số ít ví dụ điển hình về chỉ dấu bệnh tật có nguyên nhân trực tiếp là tắc nghẽn mạch bạch huyết cục bộ, mạn tính:
• Béo phì
• U nang tử cung hoặc buồng trứng
• Phì đại tuyến tiền liệt
• Bệnh thấp khớp
• Phì đại tâm thất trái
• Suy tim sung huyết
• Sung huyết phế quản và phổi (mạn tính)
• Phì đại vùng cổ
• Cổ và vai cứng mỏi
• Đau lưng
• Nhức đầu
• Đau nửa đầu
• Xây xẩm mặt mày (chóng mặt nhẹ)
• Chóng mặt
• Ù tai
• Đau tai
• Điếc
• Gàu
• Cảm lạnh thường xuyên
• Viêm xoang
• Viêm mũi dị ứng với phấn hoa
• Một số loại hen suyễn
• Phì đại tuyến giáp
• Những bệnh về mắt
• Mắt kém
• Phù *
• * nổi cục
• Các vấn đề về thận
• Đau lưng dưới
• Phù chân và mắt cá chân
• Vẹo cột sống
• Rối loạn não
• Mất trí nhớ
• Rối loạn dạ dày
• Phì đại lá lách
• Hội chứng ruột kích thích
• Thoát vị
• Polyp ở đại tràng
• Rối loạn hệ sinh sản
• và nhiều chứng khác...
Hình 3: Hệ bạch huyết và hạch bạch huyết
Nếu bất cứ một triệu chứng nào hoặc vài triệu chứng ở trên kết hợp diễn ra trong nhiều năm, thì khả năng rõ rệt là người đó sẽ mắc ung thư.
Sau khi thu thập bạch huyết từ tất cả các bộ phận cơ thể, ngoại trừ bên phải đầu và cổ, cánh tay phải và góc phần tư phía trên bên phải của cơ thể, mạch bạch huyết này nhập vào ống bạch huyết trái, ống này trả bạch huyết về hệ tuần hoàn bằng cách truyền vào tĩnh mạch dưới đòn trái ở ngay dưới cổ. Tĩnh mạch dưới đòn đi vào tĩnh mạch chủ trên, tĩnh mạch chủ trên dẫn thẳng vào tim. Ngoài việc cản trở quá trình lưu chuyển bạch huyết bình thường từ nhiều cơ quan hoặc các bộ phận của cơ thể, tắc nghẽn ở túi nhũ chấp và ống ngực còn khiến những chất độc hại đi vào tim và các động mạch của nó, gây căng thẳng quá mức cho tim, có thể khiến tim to ra và gây rối loạn nhịp tim cùng những biến chứng khác. Nó cũng cho phép các chất độc và các tác nhân gây bệnh này xâm nhập hệ tuần hoàn chung rồi lan tới các bộ phận khác của cơ thể.
Xin được nhấn mạnh một lần nữa, hiếm có khi nào một bệnh, kể cả ung thư, không do nghẽn mạch bạch huyết. Nếu đường cống thải chính của nhà bạn bị tắc nghẽn, thì hậu quả hợp lý là tất cả những ống thải nhỏ khác từ nhà vệ sinh, bồn rửa, phòng tắm và bồn tắm cùng sẽ bị tắc và gây ngập lụt. Dịch béo phì ở Hoa Kỳ phần lớn là do (mặc dù không phải là nguyên nhân ban đầu) hệ bạch huyết tắc nghẽn, ngăn cản quá trình loại bỏ chất thải của cơ thể.
Đa số trường hợp, nghẽn mạch bạch huyết có nguyên nhân gốc rễ là do gan bị sung huyết
1 cũng như do chế độ ăn uống và lối sống nguy hại. Rốt lại, u lympho hay ung thư bạch huyết có thể xuất hiện, trong đó bệnh Hodgkin là dạng phổ biến nhất.
1 Những nguyêo nhân gây sỏi mật ở gan được phân tích đầy đủ trong cuốn sách của tôi: The Amazing Liver and Gallbladder Flush (TG).Bình thường khi máu và bạch huyết được lưu thông suôn sẻ thì cơ thể không có bệnh tật gì. Cả hai dạng vấn đề, tuần hoàn và bạch huyết, đều có thể giải quyết thông qua một chương trình thải độc gan đều đặn và chế độ ăn uống cùng lối sống cân bằng.
Các vấn đề tiêu hóa mạn tính
Trước khi bị nghẽn mạch bạch huyết mạn tính, ắt hẳn việc tiêu hóa đã gặp khó khản trong một thời gian dài. Thức ăn không được tiêu hóa đúng cách sẽ trở thành nơi ươm mầm ung thư vì các hợp chất độc hại có thể ảnh hưởng đến hành vi của tế bào.
Bốn hành vi tiêu hóa chính là: ăn, tiêu hóa, hấp thụ và đào thải. Kênh tiêu hóa bắt đầu ở miệng, đi qua ngực, bụng rồi vùng khung chậu và kết thúc ở hậu môn. Khi thực phẩm được ản vào, một chuỗi quá trình tiêu hóa bắt đầu diễn ra. Phân rã thức ăn có thể chia thành: cơ học, tức là hành động nhai, và hóa học là thông qua enzyme. Những enzyme này có mặt trong những chất tiết ra từ các tuyến của hệ tiêu hóa.
Enzyme là vật chất hóa học vô cùng nhỏ kích hoạt hoặc thúc đẩy những thay đổi hóa học trong các chất khác mà sau quá trình đó bản thân enzyme không thay đổi. Các enzyme tiêu hóa có trong nước bọt của tuyến nước bọt ở miệng, dịch vị trong dạ dày, và dịch ruột ở ruột non, dịch tụy ở tụy và mật ở gan.
Quan trọng là bạn phải biết rằng enzyme tiêu hóa và enzyme trao đổi chất (chỉ được sản sinh ra trong chính cơ thể) có một khả năng chống ung thư mạnh mẽ nhất so với bất cứ thứ gì trong cơ thể. Nếu không sản sinh đủ những enzyme này thì sẽ tác động tai hại đến sức khỏe tế bào và đây có thể bị xem là nguyên nhân trực tiếp phát triển ung thư trong cơ thể, dù ở bộ phận nào chăng nữa.Hấp thụ là quá trình mà các phân tử dinh dưỡng vô cùng nhỏ của thức ăn được tiêu hóa đi qua thành ruột vào mạch máu và mạch bạch huyết để phân phối tới các tế bào. Ruột loại bỏ bất cứ thứ gì thức ăn không thể tiêu hóa hoặc hấp thụ dưới dạng phân. Phân này cũng chứa mật, vì mật mang theo chất thải từ quá trình phân rã (dị hóa) của các tế bào hồng cầu và các chất có hại khác. Thêm vào đó, một phần ba chất thải bị tống ra là vi khuẩn ruột. Cơ thể chỉ có thể hoạt động suôn sẻ và hiệu quả khi ruột loại bỏ những chất thải tích tụ hằng ngày. Ruột bị ứ nghẽn khi thức ăn không được tiêu hóa đúng cách. Hệ quả tự nhiên là chất thải bị đẩy ngược vào bạch huyết, máu và các bộ phận phía trên của cơ thể, trong đó có dạ dày, ngực, cổ họng, cổ, các giác quan và não.
Sức khỏe, xin nhắc lại, là kết quả tự nhiên có được nhờ sự vận hành cân bằng của những hoạt động chính kể trên trong hệ tiêu hóa.
1 Mặt khác, ung thư và nhiều nỗ lực sinh tồn (cũng như chữa lành) tương tự nảy sinh bất cứ khi nào một hoặc hơn một chức năng này bị trục trặc. Sự xuất hiện của sỏi mật trong gan và túi mật có một sức công phá khủng khiếp đối với việc tiêu hoá và hấp thụ thức ăn, cũng như với việc tiệt trừ chất thải. Hiện tượng tăng tính độc trong cơ thể này, đi kèm với việc ngày càng mất khả năng tự nuôi dưỡng qua đường tiêu hóa, chính là yếu tố góp phần làm bệnh tật tiến triển.
1 Cách phục hồi tất cả các chức năng này của hệ tiêu hóa được thảo luận chi tiết trong cuốn sách của tôi, Timeless Secrets of Health & Rejuvenation. (Xem trên http://www.ener-chi.com/books/timeless- ... uvenation/) (TC).Tắc ống mật trong gan
Sỏi mật (cũng được gọi là sỏi trong gan) không chỉ có trong túi mật, mà còn có trong ống mật của gan. Trên thực tế, hầu hết sỏi mật đều được hình thành trong gan, và chỉ tương đối ít trong
túi mật. Ước tính 20% dân chúng thế giới sẽ có sỏi mật trong túi mật ở giai đoạn nào đó trong đời. Tuy nhiên, con số này không tính đến những người sẽ hoặc đã có sỏi trong
gan, mà số này thì còn nhiều hơn nữa.
Trong suốt 30 năm hành nghề y tự nhiên (natural medicine), tôi đã khám chữa cho hàng nghìn người bị đủ các loại bệnh tật. Tôi có thể đưa ra tư liệu chứng minh rằng không có ngoại lệ nào và ai cũng có kha khá sỏi mật trong gan. Các bệnh nhân ung thư và những người bị viêm khớp, bị bệnh tim, bệnh gan và các bệnh mạn tính khác dường như là những người có nhiều sỏi trong gan nhất. Bất ngờ là chỉ có tương đối ít người trong số họ thông báo có tiền sử sỏi mật trong túi mật.
Sỏi mật trong gan là cản trở lớn để có được và duy trì cuộc sống khỏe mạnh, trẻ trung và vui vẻ. Thực ra chúng là một trong những nguyên nhân chính khiến con người đau ốm và khó phục hồi sau bệnh tật, trong đó có ung thư.
Gan kiểm soát trực tiếp sự phát triển và hoạt động của mọi tế bào trong cơ thể. Bất cứ trục trặc, thiếu hụt hoặc hình thái phát triển bất thường nào ở tế bào phần lớn đều là do gan hoạt động kém. Do thiết kế phi thường mà gan dường như thường xuyên hoạt động bình thường, chỉ cần một xét nghiệm máu là chúng ta có thể biết lượng cân bằng của các enzyme trong gan, thậm chí cả khi nó đã mất đi 60% hiệu quả ban đầu. Dù bệnh nhân và cả bác sĩ có bị lạc hướng thế nào đi chăng nữa, thì nguồn gốc của hầu hết các bệnh đều có thể dễ dàng lần ra là tại gan.
Tất cả các bệnh và triệu chứng sức khỏe yếu đều do bị tắc nghẽn theo cách nào đó. Nếu một mạch máu bị tắc và không còn cung cấp ôxy hoặc các chất dinh dưỡng thiết yếu kịp thời cho một nhóm tế bào nào đó nữa, thì các tế bào đó sẽ buộc phải dùng đến biện pháp khẩn cấp đặc biệt để có thể tồn tại. Tất nhiên, nhiều tế bào bị tác động sẻ không sống sót qua trận đói kém này và chỉ đơn giản là sẽ chết. Tuy nhiên, các tế bào dày dạn dễ thích nghi hơn sẽ học được cách sống chung với nghịch cảnh bằng đột biến tế bào, và sẽ lấy thức ăn từ các chất thải độc hại sau trao đổi chất tích tụ ở đó cùng nhiều thứ khác mà các tế bào này có thể chộp được từ tế bào khác. Mặc dù, trên thực tế, một đáp ứng sinh tồn như vậy có thể góp phần tránh cho cơ thể khỏi một cái chết tức thì do ngộ độc nhiễm khuẩn hoặc một cơ quan nào đó ngưng hoạt động, nhưng chúng ta vẫn có xu hướng gắn cho nó cái mác
bệnh tật. Trong trường hợp đột biến tế bào, ung thư chính là cái mác được áp dụng.
Câu hỏi quan trọng ở đây là làm thế nào mà một điều đơn giản như tắc tuyến mật lại có thể gây ra những bệnh phức tạp như suy tim sung huyết, tiểu đường và ung thư như vậy.
Mật ở gan là dịch đắng, mang tính kiềm, có màu vàng, nâu hoặc xanh lá. Nó có nhiều tác dụng. Mỗi tác dụng đều ảnh hưởng sâu sắc tới sức khỏe của từng cơ quan và hệ thống trong cơ thể. Ngoài việc hỗ trợ tiêu hóa thức ăn chứa chất béo, canxi và protein, mật rất cần thiết để duy trì mức mỡ trong máu bình thường, loại bỏ chất độc ra khỏi gan, và giúp duy trì độ cân bằng axít/kiềm hợp lý trong đường ruột và giữ cho đại tràng không là nơi nuôi sống của các vi khuẩn độc hại.
Mật phòng tránh và có thể cứu chữa ung thư và các bệnh về tim, hai nguyên nhân hàng đầu gây tử vong!Tầm quan trọng của mật trong việc duy trì sức khỏe đã không được thừa nhận đầy đủ, ít nhất là trong giới y học chính thống. Tuy nhiên, bằng chứng khoa học chất chồng như núi đã chứng minh các sắc tố mật là bilirubin và biliverdin tạo màu cho mật đóng vai trò tối quan trọng về mặt sinh lý ở con người.
Theo một nghiên cứu được xuất bản năm 2008 trong tạp chí y học danh tiếng Mutation Research, các sắc tố mật có các tính chất chống phát sinh đột biến mạnh.
1 Các nhà nghiên cứu tuyên bố rằng trong quá khứ, các sắc tố mật mà đặc biệt là bilirubin từng được cho là sản phẩm phụ vô dụng của quá trình dị hóa (phân rã) heme
2, có thể độc hại nếu chúng tích tụ lại. Nghiên cứu kết luận: “Tuy nhiên, trong 20 năm qua, ngày càng có nhiều nghiên cứu tìm kiếm lợi ích sinh lý của các sắc tố mật, và bằng chứng đã gợi ra rằng các sắc tố mật có các tính chất chống ôxy hóa và chống phát sinh đột biến đáng kể.”
1 Mutat Res., tháng 1/2-2008; 658(1-2):28-41. Định dạng epub, 18-5-2007 (TG).
2 Thành phần của hemoglobin huyết sắc tố, chất nhuộm sắc tố màu đỏ trong máu (TG).Các bác sĩ thường khiến bạn hoang mang khi màu da hoặc màu mắt của bạn chuyển vàng (bệnh vàng da). Họ sẽ không nói cho bạn biết rằng cơ thể bạn thực ra đang trong quá trình loại bỏ các gốc peroxyl nguy hiểm và một số lớp chất sinh đột biến (các hyđrôcacbon thơm đa vòng, các amin dị vòng, các chất ôxy hóa), chúng đều là các chất hóa học được biết là có tác dụng ung thư hóa tế bào. Đôi khi cơ thể có vẻ khiến bạn ốm yếu để nó có thể thanh lọc và làm cho bạn thực sự khỏe mạnh.
Tôi xem phát hiện của nghiên cứu này như là một trong những phát hiện quan trọng nhất trong lĩnh vực y học, một điều mà hệ thống y học cổ xưa nhất - Ayuverda 6.000 năm tuổi - đã biết từ lâu. Mật, nếu không bị kẹt trong các viên sỏi ở ống mật hoặc túi mật, thì có thể giữ cho tế bào khỏe mạnh không đột biến thành tế bào ung thư. Trên thực tế, các nghiên cứu đã phát hiện ra người có nồng độ bilirubin và biliverdin cao hơn thì có tỷ lệ mắc ung thư và bệnh tim mạch thấp hơn.
11 Mutat Res., tháng 1/2-2008; 658(1-2):28-41. Định dạng epub, 18-5-2007 (TG).Theo nghiên cứu của Nhật Bản, mức độ các sắc tố mật tăng lên trong bệnh vàng da thậm chí có thể giải quyết được chứng hen suyễn khó kiểm soát do viêm gan B cấp tính.
22 Tohoku J Exp Med., tháng 3-2003; 199(3):193- 6(TG).Một cách tự nhiên, những phát hiện này cùng những phát hiện tương tự đã dấy lên câu hỏi liệu những thứ mà y học đã xem là bệnh tật thực ra có thể là một nỗ lực sinh tồn và chữa lành phức tạp của cơ thể hay không. Khi được điều trị và bị trấn áp bằng thuốc men, những nỗ lực chữa lành của cơ thể có thể bị hủy hoại hoàn toàn. Thay vì tiến hành một cuộc chiến thuốc men chống lại cơ thể, chúng ta có thể hỗ trợ nó bằng cách loại bỏ những chướng ngại không cần thiết chồng chất. Với vai trò quan trọng lớn lao của mật và các thành phần của nó trong cơ thể, giữ cho mật được lưu thông suôn sẻ mọi lúc là việc làm cực kỳ hợp lý.
Làm sạch gan và túi mật khỏi mọi viên sỏi tích tụ sẽ giúp phục hồi cân bằng nội môi, cân bằng trọng lượng và hình thành tiền đề để cơ thể tự chữa lành. Làm sạch gan cũng là một trong những biện pháp phòng tránh tốt nhất để bảo vệ cơ thể bạn khỏi bệnh tật trong tương lai.
Đồ ăn nước uống không tự nhiên
Ở Hoa Kỳ, ngành công nghiệp thực phẩm sản xuất hơn 40.000 sản phẩm ăn uống khác nhau, phần lớn là không có hoặc có giá trị dinh dưỡng rất hạn chế. Thực phẩm chế biến, tinh luyện, cải tiến, bổ sung dinh dưỡng, được bảo quản, tạo mùi, nấu chín sẵn, biến đổi gien, thêm ga, được chiếu phóng xạ, được hâm nóng bằng lò vi sóng cùng những thực phẩm được xử lý, thay đổi theo các cách khác có chung một tác dụng là làm tế bào con người chết đói.
Ung thư là kết quả của một trận đói tiến triển ở cấp độ tế bào. Nó xảy ra khỉ cơ thể không nhận được những gì cần thiết để phát triển theo thiết kế ban đầu. Để tồn tại và tránh cho các cơ quan suy sụp do thiếu chất dinh dưỡng và suy kiệt năng lượng trầm trọng, nhân tế bào không còn cách nào khác ngoài việc đột biến và bắt đầu hoạt động kỵ khí.
Một tế bào kỵ khí giống như một người ốm yếu, vô gia cư, bị xã hội xa lánh, phải sống bằng thực phẩm ôi thiu và độc hại mà những thành viên khỏe mạnh, giàu có của xã hội vứt bỏ như rác rưởi. Giá trị dinh dưỡng của chế độ ăn uống hiện đại điển hình cũng không khác gì rác rưởi vô dụng. Lấy ví dụ khoai tây chiên nhé. Mặc dù người ta biết chúng có chứa chất béo gây ung thư, cùng với các chất phụ gia và các chất bảo quản có hại, nhưng hàng triệu trẻ em và người lớn ở Mỹ vẫn cứ tiêu thụ khá nhiều mỗi ngày.
Hãy thử thực hiện thí nghiệm sau: lần tới bạn gọi khoai tây chiên ở cửa hàng McDonald hoặc một quán ăn nhanh tương tự, hãy đem một ít về nhà và để chúng ở chỗ thoáng khí.
Bạn sẽ phát hiện ra là chúng không phân hủy và thậm chí còn không chuyển màu (trong khi đó khoai tây chiên làm từ khoai tây tươi nhanh chóng héo lại, chuyển thành màu xám và bị mốc). Giờ thì hãy lặp lại thí nghiệm với hamburger. Hamburger cũng để được đến hàng năm trời mà không hỏng. Thậm chí đến cả vi khuẩn cũng không buồn phân hủy nó. Những thực phẩm này và hầu hết thức ăn chế biến khác như margarine được tạo ra để không bao giờ hỏng, được bảo quản hoàn hảo để có thể tồn tại qua quá trình chế biến và vận chuyển, và an toàn đối với người tiêu dùng.
Bạn có đang băn khoăn là người ta cho loại hóa chất nào vào những đồ ăn này để nó có thể chống được cả vi khuẩn lẫn nấm mốc không? Chẳng mấy người tiêu dùng biết được chính xác là cái gì được cho vào đó, mặc dù một số chất bảo quản đã được in lên nhãn mác (nhưng thường được in quá nhỏ, khó đọc). Và cơ thể có thể làm gì để tiêu hóa được những chất phụ gia hóa học này? Chẳng làm được gì cả.
Nếu bạn may mắn, chúng chỉ đi qua đường ruột mà không được tiêu hóa (tiêu chảy); mặc dù khả năng nhiều hơn là chúng gây táo bón và tích tụ ở ruột, như quan sát thấy trong những ổ bụng phì to của những người hay ăn những thức ăn Frankenstein như vậy. Vì ăn những thức ăn này gây ra thiếu hụt nghiêm trọng chất dinh dưỡng, chúng cũng gây cảm giác thèm đồ ăn mà không bao giờ thỏa mãn được.
Ngành công nghiệp thực phẩm biết rõ
bí mật nho nhỏ bẩn thỉu này và đã đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cho những thức ăn
thông minh như thế bằng cách sản xuất nhiều thứ thực phẩm gây ứa nước bọt hơn bao giờ hết, chúng đặc biệt dành để phục vụ cho những người béo phì và quá cân.
Người ta dùng những cụm từ bắt mắt như lượng cholesterol thấp, không béo, ít natri, ít calorie và không đường. Mặc dù những thực phẩm này đáng lẽ chẳng hấp dẫn gì các nụ vị giác của lưỡi, nhưng các chất hóa học phụ gia và tạo mùi đã giúp chúng trở nên rất ngon lành. Hiện nay có đến hàng ngàn thứ thực phẩm chế biến khác nhau rơi vào loại này. Tất nhiên, các nhãn mác thực phẩm chẳng cảnh báo gì về việc những chất hóa học này là chất gây ung thư đã biết.
Hầu hết mọi người đều tin rằng nếu một cửa hiệu tạp hóa hoặc một nhà hàng ở Mỹ bán một thức ăn nào đó thì ắt hẳn nó phải rất ngon và an toàn. Họ cũng tin rằng dùng lò vi sóng để nấu thức ăn là an toàn và vô hại. Tôi sẽ bàn đến lò vi sóng ở chương 5, và cũng có rất nhiều thông tin chi tiết về chủ đề này trong cuốn sách khác của tôi,
Timeless Secrets of Health & Rejuvenation.
Các cơ quan y tế được chính phủ lập ra để ngăn mọi người không sa vào con đường nguy hiểm nhưng lại có những chương trình nghị sự tai hại, cho phép những thuốc men và công nghệ chết người được rao bán trên diện rộng. Có bao nhiêu người chất vấn FDA về việc tại sao họ cho phép dầu hạt cải canola biến đổi gien càn quét ngành thực phẩm và nhà hàng tại Mỹ mà không có kiểm nghiệm trước? Báo cáo công khai chỉ ra rằng FDA biết về nghiên cứu của Canada chứng minh chuột được cho ăn dầu này đã phát triển những khối u chết người trong não. Nhưng cơ quan này không muốn từ bỏ hàng triệu đô la tiền phí giấy phép chấp thuận cho dầu này được sử dụng.
Tương tự như vậy, những chất kích thích độc hại như aspartame, splenda và mì chính cũng thường trà trộn vào phần lớn các thực phẩm và nước uống chế biến đang bán chạy nhất của nước này vì FDA đã cho phép. Những chất này có tính gây nghiện hơn cả heroin, caffein và nicotin cộng lại. Chúng khiến cho
nạn nhân của chúng gần như là không thể kiềm chế được chứng ăn quá nhiều. Những tác dụng khủng khiếp của chúng lên cơ thể con người đã được nhiều tài liệu viết rõ, và FDA, Các Trung tâm Kiểm soát và Phòng bệnh (CDCP) cùng ngành công nghiệp thực phẩm này đã biết về nó nhiều năm nay rồi.
Mì chính (bột ngọt) là một vấn đề đặc biệt khi nhắc đến chuyện béo phì. Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng những người thường xuyên ăn mì chính có nguy cơ béo phì hoặc quá cân cao hơn 30% so với người không ăn. Để đảm bảo không rơi vào cái bẫy mì chính - béo phì, tốt nhất hãy tránh tất cả các thực phẩm chế biến. Và nhớ rằng, mì chính có tính gây nghiện cao. Nó khiến bạn nghiện những thức ăn chứa nó [
The American Journal of Clinical Nutrition, tháng 6-2011; 93(6):1328-36].
Ngành thực phẩm chỉ có một động lực duy nhất: khiến cho mọi người tiêu thụ thêm nhiều thức ăn. Giúp chúng ta ăn uống thực phẩm lành mạnh, vững bền một cách điều độ không phải là ưu tiên của nó, vì điều đó có nghĩa là lợi nhuận ít hơn. Do đó, bằng cách đưa các chất gây nghiện vào thực phẩm và đồ uống phổ biến nhất, ngành thực phẩm đã tạo ra một xã hội mà thói quen ăn uống của đại đa số người dân đã trở nên mất kiểm soát. Với 75% dân số quá cân và béo phì, xã hội Mỹ về đại thể đã bị một
khối u quá lớn; đi kèm với nó là việc đại đa số người dân sức khỏe kém và chi phí y tế tăng vọt.
Khối u này ngày càng gặm nhấm nhiều phần tài nguyên quốc gia. Năm 2007, 2,3 nghìn tỷ đô la dành cho y tế; gấp 4,3 lần số tiền dành cho quốc phòng lúc đó. Không một quốc gia nào trên thế giới dành đến 16% GDP vào y tế như nước Mỹ mà - xin được nói thêm — chẳng có tác dụng gì rõ rệt. Trên thực tế, không có một quốc gia nào trên thế giới có nhiều người ốm yếu như ở nước Mỹ.
11 Lưu ý của biên tập [ở nguyên bản]: Năm 2014 chi phí cho y tế của cả nước Mỹ là ba nghìn tỷ đô la. Xem //www.cdc.gov/nchs/fastats/health-expenditures.htm.Trao việc bảo vệ sức khỏe của mình vào tay các tập đoàn hoặc cơ quan chính phủ là việc làm dại dột. Chúng ta hãy trở lại vấn đề cốt lõi của bất cứ khủng hoảng sức khỏe nghiêm trọng nào: tình trạng đói khát của tế bào. Các tế bào của cơ thể không hứng thú với việc sử dụng bất cứ thứ gì không có lợi cho sự phát triển của nó. Mỡ gây ung thư có trong mỡ và dầu tinh chế và quá nhiệt, các chất tạo màu, các chất phụ gia, các chất bảo quản, dư lượng thuốc trừ sâu và tất cả những chất phi tự nhiên như thế cuối cùng sẽ trát lên màng tế bào những lớp nhầy không gì qua lọt.
Đấy là còn chưa kể đến hàng tỷ chất dinh dưỡng bổ sung chứa đầy chất độc mà người Mỹ tiêu thụ mỗi ngày, như thể chúng là thực phẩm thật sự. Chỉ cần nghĩ đến có bao nhiêu viên vitamin mà một người Mỹ bình thường nuốt hết ngày này sang ngày khác, năm này sang năm khác - những viên thuốc chứa đầy chất kết dính, chất làm đầy, chất tạo màu, aspartame và những chất làm ngọt nguy hiểm chết người khác, mà ở đây chỉ kể ra một ít. Nếu bạn có cơ hội nhìn vào hình ảnh tế bào soi dưới kính hiển vi của một đứa trẻ mới sinh, bạn sẽ thấy màng tế bào trong, mỏng và sạch đến mức nào. Nhưng nếu bạn xem màng tế bào của một người 65 tuổi ăn uống kiểu Mỹ điển hình và nốc thuốc cho hết chứng này đến tật khác, bạn sẽ thấy màng màu tối, dày và méo mó. Chẳng cần phải mất nhiều công sức để biến những tế bào như thế thành tế bào ung thư.
Các tế bào của một khối u ác tính được vây quanh bởi một lớp tơ huyết
1 dày gấp 15 lần so với lớp bao quanh tế bào khỏe mạnh. Tất cả các tế bào ung thư đều bị tổn hại hoặc bị thương. Lớp áo khoác tơ huyết bảo vệ tế bào ung thư trước sự tấn công của thực bào nguy hiểm, tế bào bạch huyết sát thủ và cytokine.
1 Tơ huyết (fibrin) tham dự vào việc tạo huyết khối. Nó là một protein dạng sợi được polyme hóa để hình thành một mạng lưới tạo ra một nút hoặc cục đông cẩm máu ở vết thương. Nghiên cứu hiện nay đã chỉ ra tơ huyết đóng một vai trò quan trọng trong đáp ứng viêm và phát triển bệnh thấp khớp (TG).Thế là các tế bào bị hủy hoại theo cách này bị tách khỏi cộng đồng của chúng - tức là, tách khỏi tất cả các tế bào khác trong cơ thể. Những tế bào bị xa lánh này thực sự vô gia cư. Những tế bào vô gia cư dường như mất kiểm soát, và do đó các bác sĩ tấn công chúng bằng các vũ khí chết chóc được thiết kế để gây độc, cắt bỏ, hoặc đốt cháy chúng. Mục tiêu của họ là quét sạch chúng, và họ có thể không nhận ra những hậu quả nghiêm trọng của việc tấn công tế bào ung thư lên các tế bào xung quanh. Còn những người nhận ra tác hại khá rõ đối với các tế bào khỏe mạnh thì lại cho rằng họ phải chấp nhận nguy cơ này để giết các tế bào tội lỗi.
Thực tế các bác sĩ đang chơi một canh bạc nguy hiểm trên sinh mạng của bệnh nhân khi chỉ định điều trị hóa trị và/ hoặc xạ trị. Họ có thể không bao giờ đoán được hoặc biết được bệnh nhân sẽ sống sót qua trận tấn công này hay tử vong vì nó. Dimitris, một bác sĩ Hy Lạp đã nghiên cứu và hành nghề y ở Mỹ một số năm trước khi trở về cố quốc, đã đến thăm tôi ở đảo Cyprus (Síp) để biết liệu tôi có thể làm gì đó cho chứng ung thư gan giai đoạn cuối của ông ấy hay không. Trong suốt sáu tháng sau đó ông đã giải quyết và loại bỏ tất cả các nguyên nhân gốc rễ có thể của chứng ung thư đó, và kết quả là khối u ở gan đã teo từ kích thước một quả trứng xuống chỉ còn một đốm rất nhỏ. Một ngày nọ, đồng nghiệp cũ của ông thuyết phục ông thực hiện một đợt hóa trị tân tiến nhất và mạnh nhất vừa được FDA chấp thuận.
Dimitris dần tin rằng giết chết vài tế bào ung thư cuối cùng sẽ đảm bảo ung thư không quay trở lại nữa, thế là ông bay sang Mỹ để điều trị. Ba ngày sau, ông bay trở lại Hy Lạp, trong một chiếc quan tài. Ông chết vì ngộ độc thuốc. Trước đó, tôi đã cảnh báo ông rằng, khi cơ thể bước vào chế độ chữa lành nhanh chóng như ông ấy đã làm, thì dừng quy trình này lại bằng thuốc độc chính là tự sát. Trong giai đoạn chữa lành, cơ thể dễ tổn thương trước chất độc hóa học gấp nhiều lần so với trong chế độ phòng vệ, mà trong trường hợp này chế độ đó được thể hiện ra bằng một khối u đang lớn. Tôi đã chứng kiến hiện tượng tương tự ở các bệnh nhân ung thư khác. Họ cũng có tâm trạng muốn
nhổ tận rễ những mẩu ung thư cuối cùng trong người. Quyết định của họ hóa ra lại phải trả giá bằng mạng sống.
Cơ thể cực kỳ khó tự vệ trước tình trạng ngộ độc khi nó đang cố gắng tự chữa lành. Làm tổn hại các tế bào khỏe mạnh trong khi tiêu diệt các tế bào ung thư bằng hóa trị hoặc xạ trị rất dễ sinh ra những tế bào ung thư mới và hung hăng hơn. Cơ hội sống sót thực sự duy nhất phụ thuộc vào lượng hỗ trợ mà bệnh nhân giành lại được để củng cố những nỗ lực chữa lành của chính nó.
Quan điểm điều trị ung thư như một căn bệnh không chỉ chứa đầy nguy hiểm và những đau đớn không cần thiết, mà còn không giải quyết được vấn đề ngầm ẩn là chế độ ăn uống. Cho con cái và bản thân ăn những thức ăn không phù hợp với sinh lý như khoai tây chiên và hamburger chống thiu mốc sẽ làm dày màng tế bào và buộc tế bào đột biến để hoạt động trong môi trường kỵ khí, đó là chúng ta đang tạo ra bệnh tật, một thứ bệnh đúng là sẽ quét sạch toàn thể cộng đồng. Xu hướng này đã bắt đầu hành trình của nó.
Xã hội hiện đại của chúng ta đang chịu nhiều đau khổ vì ung thư. Quyết định chọn nghiêng về sự sống thay vì cái chết là tùy vào mỗi người. Những thứ ta bỏ vào miệng có sức tác động lớn tới cách sinh tồn của cả xã hội. Chỉ cần nghĩ đến con số cứ hai người Mỹ sẽ có một người mắc một dạng ung thư nào đó, và biết rằng viễn cảnh phòng ngừa ung thư chỉ càng tồi tệ đi mỗi năm, thì chỉ có một việc hợp lý duy nhất là tránh xa thức ăn chế biến sẵn (và những yếu tố gây ung thư khác nữa) càng nhiều càng tốt.
Nếu bạn mắc ung thư, cơ hội phục hồi của bạn sẽ tăng rõ rệt khi bạn chỉ ăn thức ăn tự nhiên không bị ngành công nghiệp thực phẩm thao túng hoặc biến đổi. Tôi đặc biệt khuyến cáo là bạn chỉ nên ăn thức ăn nuôi trồng hữu cơ, lý tưởng nhất là nuôi trồng tại địa phương, trong suốt thời kỳ hồi phục. Điều này cho phép cơ thể bạn tập trung vào việc chữa lành, thay vì buộc nó phải huy động hệ miễn dịch vốn đã suy yếu tham gia vào cuộc chiến chống lại từng đợt tấn công ồ ạt của các chất phụ gia hóa học và dư lượng thuốc trừ sâu.
Thay đổi chế độ ăn uống của bạn cũng giúp giảm đáng kể nguy cơ mắc ung thư. Ăn uống đóng vai trò quan trọng trong việc tiêu biến vĩnh viễn ung thư nếu đã mắc phải chúng rồi. Ước tính, trong 60% hoặc hơn tất cả các khối u ác tính, chế độ ăn uống đóng vai trò hàng đầu trong sự khởi phát của nó. Một chế độ ăn uống chống ung thư có thể giảm được tới 2/3 nguy cơ mắc ung thư. Chế độ ăn uống phòng ngừa ung thư thành công nhất vẫn là ăn chay.
Các nghiên cứu về dân số có thể cung cấp những bằng chứng thuyết phục chứng minh rằng có những nước mà cả nước gần như có thể thoát được ung thư. Cho đến nay, đã có hơn 20 nghiên cứu được thực hiện về tỷ lệ mới mắc ung thư ở các nhóm dân tộc khác nhau trên thế giới. Hóa ra, tỷ lệ ung thư ở các nước đang phát triển thấp hơn nhiều so với Hoa Kỳ.
Chế độ ăn uống bình thường của người Mỹ, bao gồm đồ ăn rất béo, giàu đạm (protein) và được chế biến ở mức cao, gần như không hề giống với chế độ ăn uống bình thường của người dân ở các nước đang phát triển. Hoa quả, rau, rau sống, hạt ngũ cốc vẫn là thành phần chủ đạo trong bữa ăn mỗi ngày của người dân sống tại hầu hết các nước đang phát triển, mặc dù ảnh hưởng phương Tây đem đến thành phố và làng mạc của họ các loại thức ăn nhanh, phi tự nhiên giờ đây đang lăm le thay đổi thói quen ăn uống của họ. Với thói quen ăn uống mới này, hiện được cho là
sành điệu, những bệnh trước đây chưa từng nghe thấy bao giờ trong các cộng đồng đó như loãng xương, ung thư da, đau tim, thấp khớp và các vấn đề khác hiện đang ngày càng phổ biến.
Để cứu đất nước khỏi tự hủy hoại, chúng ta không còn lựa chọn nào khác ngoài việc quay trở lại với thực phẩm mà tự nhiên đã ban phát cho chúng ta. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta cần tránh những thực phẩm không do tự nhiên tạo ra. Chẳng hạn, không có mối quan hệ tự nhiên nào tồn tại giữa cơ thể chúng ta và margarine. Margarine là một thức ăn ra đời trong phòng thí nghiệm mà một sinh vật tự nhiên không được trang bị đủ điều kiện để sử dụng. Nó chỉ là một phân tử tách ra từ nhựa! Chỉ cần bỏ margarine ở bất cứ nơi nào ấm, tối, ẩm, nơi vi khuẩn có hàng đống thì bạn sẽ phát hiện ra rằng đến cả vi khuẩn cũng không đụng đến nó. Chúng đối xử với sản phẩm phi tự nhiên này như thể đó đúng là nhựa thực.
Trong hàng triệu năm, cơ thể con người đã dựa vào thực phẩm tự nhiên được nuôi trồng xung quanh để sinh tồn, bởi thế thật là ảo tưởng khi tin rằng cơ thể chúng ta đột nhiên học được cách tồn tại bằng đội quân thực phẩm mới, được chế biến sẵn, tràn ngập trên các khay kệ ở các siêu thị và cửa hàng tạp hóa. Chúng ta thậm chí còn không biết liệu đồ ăn như ngô, đỗ tương hoặc khoai tây có phải là nhân tạo (biến đổi gien) hay không.
Hầu hết các thực phẩm chế biến sẵn đều chứa thành phần thực phẩm biến đổi gien. Sự thực là thực phẩm không được nuôi trồng tự nhiên không thể nào làm nhiệm vụ thực phẩm được. Cơ thể không mối liên hệ nào nào hoặc không nhận ra được thực phẩm nhân tạo không còn mang
chữ ký xác nhận của thực phẩm thật nữa. Thay cho việc nuôi dưỡng các tế bào của cơ thể, thực phẩm chế biến sẵn chầm chậm bỏ đói chúng đến chết bằng cách tích tụ trong các cơ quan và các mô.
Do đó, chỉ ăn thực phẩm chế biến về cơ bản chính là tự sát. Ăn kiểu Mỹ điển hình, tức là toàn thịt đỏ, đồ rán, thực phẩm chế biến từ sữa, các loại hạt ngũ cốc tinh chế và món tráng miệng nhiều đường, trên thực tế đồng nghĩa với tự ngộ sát.Trong một nghiên cứu quan sát, các nhà khoa học đã khảo sát mối quan hệ giữa chế độ ăn uống của hơn 1.000 người được điều trị ung thư đại tràng giai đoạn 3 và nguy cơ tái phát. Họ phát hiện ra rằng những người ăn điển hình kiểu Mỹ có khả năng tái phát gấp ba lần và cũng có khả năng tử vong nhiều hơn so với những người ăn theo chế độ gần như là chay. Nghiên cứu này, được đăng trên tạp chí
Journal of the American Medical Association (JAMA), là nghiên cứu đầu tiên tìm hiểu ảnh hưởng của việc ăn uống đối với sự tái phát ở những người sống sót sau ung thư đại tràng. Các nhà nghiên cứu nói kết quả đã khẳng định mạnh mẽ rằng chế độ ăn chủ yếu thịt đỏ đã qua chế biến, khoai tây chiên, hạt ngũ cốc tinh chế, bánh kẹo và các món tráng miệng ngọt sẽ làm tăng nguy cơ tái phát ung thư và giảm khả năng sống sót.
Dầu vậy cũng có tin mừng là một số thực phẩm có thể đề kháng lại ở một mức độ nào đó tác động gây ung thư của chế độ ăn điển hình kiểu Mỹ. Một nghiên cứu của Nhật Bản ở đại học Nagoya đã chỉ ra rằng các sắc tố ở ngô tía cản trở sự phát triển ung thư đại tràng. Các nhà nghiên cứu phân chia động vật thành hai nhóm, một nhóm được ăn thức ăn có trộn chất gây ung thư trong tự nhiên được tìm thấy ở những phần cháy cạnh của thịt và cá nướng, và một nhóm hấp thụ thêm 5% sắc tố của ngô tía. Trong nhóm được cho ăn chất sinh ung thư, 85% bị ung thư đại tràng, so với chỉ 40% ăn sắc tố. Những nghiên cứu khác cho thấy ngô tía cũng ngăn ngừa béo phì và tiểu đường.